Thursday, April 6, 2023

Miến Điện: 75 năm vật lộn với hai chữ “dân chủ”

Miến Điện giành được độc lập và trở thành nước cộng hoà, lưỡng viện từ tháng 1/1948. Tướng Aung San, cha của bà Aung San Suu Kyi, là một anh hùng dân tộc, người đã có công lãnh đạo quân đội Miến Điện chống phát xít Nhật và thương lượng thành công buộc đế quốc Anh trao trả độc lập cho Miến Điện. Ông được coi là Người Cha của Dân tộc, người đã thành lập quân đội và khai sinh ra đất nước Miến Điện hiện đại. Ông được chỉ định trở thành thủ tướng trong chính phủ đầu tiên của nền độc lập. Tuy nhiên ông và 7 bộ trưởng đã bị các đối thủ chính trị ám sát trong vụ thảm sát ngày 19/7/1947, nghĩa là chỉ 6 tháng trước ngày Miến Điện tuyên bố độc lập. Nguyên nhân ám sát là do tranh giành quyền lực. Thủ lĩnh phe đối lập U Saw, người tổ chức cuộc ám sát, hi vọng sẽ được người Anh mời tham gia chính phủ mới. Tuy nhiên, trước sự phẫn nộ của nhân dân Miến Điên, U Saw đã bị toà án Anh kết án treo cổ. Cuộc ám sát gây rúng động thế giới và là điềm báo gở cho một nền dân chủ vẫn còn trong trứng nước.

Mâu thuẫn tôn giáo và dân tộc dẫn đến xung đột quân sự liên miên trong hơn một thập kỷ sau ngày độc lập. Năm 1962, nhằm vãn hồi ổn định chính trị, tướng Ne Win đã lãnh đạo quân đội đảo chính để thành lập chính quyền quân sự. Tiếp theo là thời kỳ độc tài quân sự kéo dài gần 30 năm dưới thời Ne Win, với một số cuộc đàn áp đẫm máu nhằm dập tắt những nỗ lực tái lập nền dân chủ. Điển hình là cuộc nổi dậy toàn quốc ngày 8/8/1988 dẫn đến hàng ngàn người bị giết chết. Từ cuộc nổi dậy này, Aung San Suu Kyi nổi lên như một biểu tượng của đối lập. Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do lại được tổ chức, nhưng kết quả bầu cử không được công nhận. Hai mươi năm nữa đấu tranh không ngừng nghỉ lại trôi qua. Đến tháng 2/2011, sau rất nhiều nỗ lực của cả phe quân sự và đảng của bà Aung San Suu Kyi, một cuộc bầu cử dân chủ được tiến hành, bầu ra tổng thống dân sự đầu tiên sau 50 năm quân đội nắm quyền.

Tuy nhiên, nền dân chủ ấy cũng chỉ tồn tại được 10 năm. Tháng 2/2021, quân đội lại đảo chính và tuyên bố huỷ bỏ kết quả cuộc bầu cử vừa diễn ra trước đó, nơi đảng LND của Aung San Suu Kyi chiến thắng vang dội. Nguyên nhân chính là do phe quân đội tức giận vì bị tước quá nhiều ghế trong quốc hội và có nguy cơ bị truy tố nếu công nhận kết quả bầu cử. Đất nước một lần nữa lại chìm trong hỗn loạn, đẫm máu. Các công ty nước ngoài rút hết về nước. Hầu hết các ngân hàng đóng cửa. (Theo cô Khăn Piêu, các nhân viên Miến Điện làm việc cho Liên Hợp Quốc phải bỏ hết tiền vào balo và mang theo người quanh năm). Đến nay, GDP/Capita của Miến Điện thuộc nhóm thấp nhất châu Á. Vừa rồi, ngày 28/3/2023, đảng LND của bà Aung San Suu Kyi đã bị chính quyền giải thể. Nhiều lãnh đạo đảng bị kết án tử hình hoặc án tù lâu năm. Bản thân bà bị kết án tổng cộng 33 năm tù giam. Tương lai nền chính trị Miến Điện một lần nữa lại trở nên bất định.

Như vậy, lịch sử Miến Điện từ ngày độc lập đến nay do các tướng quân sự quyết định những thời điểm quan trọng nhất. Năm 1947, tướng Aung San có công lớn khai sinh ra nền độc lập. Năm 1962, tướng Ne Win thành lập nền độc tài quân sự khi thấy dân chủ không tạo ra được ổn định chính trị. Năm 2011, tướng Thein Sein và tướng Than Shwe mở đường cho tổng thống dân sự đầu tiên trở lại nắm quyền. Tướng Thein Sein cũng là tổng thống dân sự đầu tiên. Năm 2021, tướng Min Aung Hlaing lại lãnh đạo đảo chính quân sự lật đổ chính quyền dân sự.

Bài học rút ra là việc cố gắng áp đặt máy móc mô hình dân chủ đã đẩy đất nước rơi vào hỗn loạn, nghèo đói, xung đột đẫm máu suốt 75 năm. Lẽ ra, đảng LND của bà Aung San Suu Kyi nên thoả thuận với phe quân đội, chấp nhận để họ tiếp tục giữ 25% số ghế trong quốc hội cùng với nhiều lợi ích khác. Nghĩa là chấp nhận dân chủ một phần, và các phe phái cùng nhau tập trung phát triển quốc gia.

Theo báo cáo của Economic Intelligence Unit, năm 2021 số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ không thuộc nhóm “Dân chủ” hoặc “Dân chủ Khiếm khuyết” hiện chiếm đa số trên thế giới. Điều đó có nghĩa là hiện nay “dân chủ” vẫn chỉ là mô hình của thiểu số.

Khi quốc gia chưa đủ điều kiện sẵn sàng cho một nền dân chủ kiểu phương tây thì việc cố gắng cưỡng ép chỉ tạo ra thảm hoạ.

 

Khái niệm “cõng rắn cắn gà nhà” và trường hợp Nguyễn Ánh

Đọc trên mạng thấy có những người không phân biệt được thế nào là “cõng rắn, cắn gà nhà”, thế nào cứu nước. Họ lại còn đòi bỏ khái niệm “cõng rắn cắn gà nhà”? Để đánh giá các nhân vật lịch sử thì phải có tư duy triết học, bởi vì phải-trái-đúng-sai liên quan đến con người là thuộc về triết học đạo đức.

Khi quốc gia đang do người của chính dân tộc đó điều hành, và việc điều hành đó không có vấn đề gì lớn, thì một nhân vật tìm cách tranh đoạt quyền lực không phải là điều đáng khen. (Trừ phi một triều đình quá yếu kém, việc tranh đoạt quyền lực dẫn đến chính quyền mạnh hơn. Ví dụ, Đinh Toàn 3 tuổi lên ngôi, trong khi nguy cơ giặc Tống xâm lược, Dương Vân Nga chuyển giao quyền lực cho Lê Hoàn làm vua để bảo vệ tổ quốc là điều hợp lý.)

Thế nhưng khi quốc gia đang do người Việt điều hành, Lê Chiêu Thống với triều đình yếu ớt, cầu viện quân Thanh để đánh Quang Trung, dẫn đến nguy cơ mất nước thì đó là “cõng rắn cắn gà nhà”. Giả dụ Quang Trung thua thì rõ ràng là quân Thanh sẽ chiếm VN, và người Việt mất nước. Thật ra Quang Trung được ca ngợi chủ yếu vì đánh tan quân Thanh chứ không phải vì việc tranh đoạt quyền lực. Việc tranh đoạt quyền lực giữa người Việt với nhau là sự kiện lịch sử, nhưng không phải là điều đáng khen.

Chuyện vua chúa VN sang Trung Hoa xin phong vương để cầu hoà là hết sức bình thường. Bởi chính nhờ điều đó đã ngăn cản nguy cơ các vua chúa Trung Hoa sang xâm lược VN.

Tự Đức cầu viện nhà Thanh để hỗ trợ tiêu diệt nạn cướp bóc. Nhưng chỉ có một nhóm nhỏ quân Thanh vào VN chứ không phải cả một sư đoàn hàng vạn quân tràn vào VN. Và sau đấy không dẫn đến hậu quả là quân Thanh chiếm VN cho nên không bị kết tội. Nhưng không có chuyện Tự Đức cầu Thanh đánh Pháp. Tự Đức đã bị lên án về chuyện không chủ trương đánh Pháp, cho nên Pháp nhanh chóng chiếm được VN.

Quân cờ đen tràn sang quấy nhiễu, chiếm đóng khu vực biên giới của VN. Hoàng Kế Viêm nhận lệnh của triều đình đánh quân cờ đen và thu phục được bọn này quay súng chống Pháp. Hoàng Kế Viêm không mời quân cờ đen sang VN, bởi vậy không phải là “cõng rắn cắn gà nhà”.

Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp. Nhưng khi ấy người Việt là DÂN MẤT NƯỚC. Toàn bộ quốc gia do người Pháp quản lý, quyết định tất cả những việc quan trọng nhất. Nhưng chủ trương của Phan Bội Châu là tạo ra phong trào Đông Du để gửi người Việt đi du học, vừa để nâng cao trình độ cho thanh niên Việt, vừa xây dựng quân đội của người Việt. Ông nhờ Nhật đào tạo về quân sự cho các thanh niên Việt. Không rõ Phan Bội Châu có cầu viện Nhật đem quân vào đánh Pháp hay không, nếu có thì đó chỉ là một chiến lược trong kế hoạch tổng thể của ông, bao gồm khuyến khích và gửi thanh niên Việt sang Nhật học tập và xây dựng lực lượng chống Pháp ở hải ngoại. Hơn nữa, Nhật không hề có ý định đem quân sang VN ở thời điểm ông ấy cầu viện. Thế nên ông ý không bị coi là “cõng rắn cắn gà nhà”. Phan Bội Châu được khen ngợi chủ yếu là phát động phong trào Đông Du (phong trào gửi thanh niên Việt ra nước ngoài đào tạo, học hỏi người Nhật).

Hunsen cầu viện VN khi đang xảy ra nạn Polpot diệt chủng ở Campuchia, (1.5 triệu người bị giết chết trên tổng số 6 triệu dân). Rõ ràng điều đấy giúp ngăn chặn nạn diệt chủng là thảm hoạ quá lớn đối với dân tộc Campuchia. Thế cho nên không thể coi là "cõng rắn cắn gà nhà".

  

NGUYỄN ÁNH CÓ OAN ỨC KHÔNG?

Đội thân hữu VNCH cứ gào lên rằng Nguyễn Ánh oan ức, rằng chế độ ngày nay có định kiến với nhà Nguyễn. Không hề có chuyện đấy. Ở Hà Nội có đường Nguyễn Hoàng, Duy Tân, Thành Thái. Có nghĩa là tôn vinh cả đời trước và đời sau của Nguyễn Ánh, chứ không hề kì thị nhà Nguyễn vì lý do chính trị.

Việc hiện nay không tôn vinh Nguyễn Ánh là quyết định của cộng đồng các nhà nghiên cứu sử học, cả VN và quốc tế, bởi vì đến giờ họ vẫn không tìm thấy bằng chứng nào để chứng minh ông ta có công lớn đối với dân tộc đến mức phải đặt tên đường. Bỏ qua chuyện ông ta trả thù Quang Trung vì Quang Trung cũng từng tiêu diệt dòng họ nhà ông ta. Nhưng ông ta không có công thống nhất đất nước và mở mang bờ cõi. Việc thống nhất đất nước là công của Quang Trung. Thời Nguyễn Ánh dân nổi loạn khắp nơi chứ không phải là thời yên bình. Mở mang bờ cõi chủ yếu là các chúa Nguyễn đời trước, và các vua đời sau ông ta. Các nước trên thế giới cũng có rất nhiều ông vua đứng đầu triều đại nhưng không hề được đời nay tôn vinh.

Nguyễn Ánh có tội rất lớn không thể bào chữa được là rước quân Xiêm, quân Pháp vào VN. Để chuộc cái tội đấy thì phải có công lao rất lớn. Nhưng nếu có công lao gì to lớn thì sử sách của Việt, Tây, Tầu đều ghi lại chứ đâu có khó tìm đến mức đấy. Nhất là Nguyễn Ánh lên ngôi mới chỉ cách đây hơn 200 năm.

Vì sao thời VNCH lại tôn vinh Nguyễn Ánh? Vì muốn nịnh Bảo Đại vì Bảo Đại là quốc trưởng của Quốc gia VN (1949-1955) và muốn biện minh cho sự xâm lược của Pháp.

Nhưng làm sao mà biện minh được cho sự xâm lược của Pháp, khi mà thời Pháp thuộc mọi việc hệ trọng ở VN đều do Toàn quyền Đông Dương và các công sứ Pháp quyết định. Học sinh Việt đi học trường của Nhà nước thuộc địa được dạy “Tổ tiên chúng ta là người Gaulois”. Đấy là lý do các trí thức Việt phẫn uất, đứng lên đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp.

Quan điểm thế nào là “bán nước”, “cõng rắn cắn gà nhà” là quan điểm chung của giới sử học thế giới chứ không phải chỉ riêng VN.

 

Khi nào có thể tụ tập đông người

Gần đây dư luận lại lao xao chuyện biểu tình chống lạm thu ở Sứ quán Ba Lan. Nhiều nhà chính trị salon lại cố gắng nâng cao dân trí cho người dân trong nước về việc đấu tranh khi gặp chuyện oan ức. Không biết, họ có thật sự hiểu phản ứng của người dân khi quyền lợi bị ảnh hưởng hay không. Bởi về chuyện này, người phương tây có câu "dạy cá tập bơi" còn người Việt thì nói “dạy khỉ leo cây”.


1)   NGƯỜI VIỆT TỤ TẬP ĐẤU TRANH ĐÒI QUYỀN LỢI

 Từ nhiều năm nay, mỗi khi bị ảnh hưởng đến quyền lợi sát sườn thì tinh thần đấu tranh người Việt cũng rất mãnh liệt. Có thể kể ra đây rất nhiều ví dụ: (i) Hàng nghìn lái xe chống thu phí sai trái ở hàng chục trạm BOT trên toàn quốc; (ii) Hàng nghìn dân oan mất nhà, mất đất kéo ra Hà Nội tụ tập đấu tranh trước văn phòng chính phủ, văn phòng quốc hội, lâu nay vẫn là “chuyện thường ngày ở huyện”; (iii) Người dân ở các chung cư căng biển tố cáo chủ đầu tư khắp trong Nam, ngoài Bắc vì  những mâu thuẫn lợi ích; (iv) Hàng vạn công nhân tổ chức các cuộc đình công đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc; (v) Người dân sống gần bãi rác Nam Sơn chặn xe rác vào bãi đổ rác vì ô nhiễm môi trường sống; (vi) Các trái chủ tụ tập trước các chi ngành của SCB, THM để đấu tranh trong vụ lùm xùm trái phiếu doanh nghiệp;

Trong thập kỷ 2000, VN dẫn đầu châu Á về số cuộc đình công. Giai đoạn 2008-2012, mỗi năm cả nước có trung bình 550 cuộc đình công lớn nhỏ. Từ 2012 đến 2014, luật lao động, luật Công đoàn và nhiều chính sách lao động đã được sửa đổi để làm hài hoà quan hệ lao động giữa công nhân và chủ doanh nghiệp. Chính nhờ vậy trong giai đoạn 2013-2018, số cuộc đình công hàng năm giảm dần, nhưng vẫn có 230 cuộc/năm [1][2]. Tuy nhiên, báo chí chỉ đưa tin về một số cuộc đình công lớn.

Một khi đã động chạm đến lợi ích trực tiếp thì người Việt cũng phản ứng chả kém gì người phương tây. Quyền lợi càng lớn thì họ đấu tranh càng kiên trì, quyết liệt. Có nhiều người dân oan mất nhà, mất đất đấu tranh hàng chục năm trời. Lực lượng chấp pháp cũng làm ngơ, ít khi cản trở việc họ tụ tập đòi quyền lợi.

  

2)   TỤ TẬP ĐÔNG NGƯỜI KHÔNG VÌ NHỮNG LỢI ÍCH TRỰC TIẾP

Tuy nhiên, khi có những mâu thuẫn lợi ích xảy ra, nhiều thế lực muốn tranh thủ kích động những người bị hại đấu tranh những vấn đề không trực tiếp gắn với quyền lợi của họ, chẳng hạn như đấu tranh vì môi trường, tự do, dân dân chủ, chống Trung Quốc, hoặc kích động đáu tranh chống chế độ. Chỉ những khi ấy công an mới tìm cách giải tán.

Cần phân biệt những vấn đề gắn với lợi ích trực tiếp và những thứ không gắn với lợi ích trực tiếp của công dân. Ví dụ, người dân sống gần bãi rác Nam Sơn chặn xe vào bãi rác vì ô nhiễm môi trường sống. Đây là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Trường hợp này công an thường không can thiệp, với điều kiện người dân không manh động, vi phạm pháp luật (v.d.,  gây rối trật tự công cộng, tấn công lực lượng chấp pháp). Nhưng những người sống ở những xa bãi rác, không hề bị ảnh hưởng vì ô nhiễm môi trường - có nghĩa là không bị ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, kéo đến lấy danh nghĩa đấu tranh cùng người dân Nam Sơn, hoặc những người kích động người dân Nam Sơn đấu tranh thì sẽ bị công an xử lý.

Nói tóm lại, nếu người dân tụ tập đông người để khiếu nại, phản ứng về một vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ thì công an không can thiệp. Tuy nhiên, việc tụ tập đông người để khiếu nại, phản đối về các vấn đề chung của xã hội, không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tụ tập thì thường không được khuyến khích.

Những người muốn tổ chức tụ tập để biểu thị sự ủng hộ với một vấn đề, sự kiện chính trị-xã hội nào đó (v.d., tuần hành bảo vệ quyền của người đồng tính, chào mừng tổng thống Mỹ sang thăm VN, tổ chức cuộc thi chạy hưởng ứng giờ trái đất) thì cần phải xin phép.

Tuy nhiên, việc tụ tập đông người ở nơi công cộng không nhằm khiếu nại, phản đối, hoặc biểu thị thái độ thì không cần phải xin phép. Chẳng hạn như tổ chức gặp gỡ kỷ niệm, hội thảo khoa học, ăn uống, đi dã ngoại, du lịch. Nhiều công ty trường học thường tổ chức những cuộc du lịch với hàng nghìn người tham gia.

Có nhiều nhà chính trị salon rất độc ác. Bản thân họ không có kinh nghiệm thực tế gì về chính trị đối kháng. Mấy thế hệ dòng họ nhà họ ở trong nước chỉ lo công danh, sự nghiệp, kiếm tiền, chả có ai “dấn thân đi tù”. Thế nhưng họ vẫn xúi giục con cái thiên hạ “dấn thân đi tù”. Có những bà nông dân, những anh lái xe, những chị tiểu thương cả đời không đọc hết hai trang sách triết học, không biết mặt mũi cái chủ nghĩa cộng sản như thế nào. Vậy mà họ kích động những người ấy ra toà hò hét “chống cộng” để đến nỗi chủ toạ phiên toà phải tặng thêm cho mỗi người vài năm tù. Họ còn tán dương, kích động dân làng Đồng Tâm làm những điều thách thức pháp luật nghiêm trọng (bắt giam 38 công an, lập làng kháng chiến, tích trữ vũ khí tự chế). Ở các nước văn minh như Mỹ, những hành vi như vậy rất dễ bị cảnh sát cho ăn đạn đồng. Vậy mà khi gia đình cụ Kình tan nát, cụ Kình chết, hai người con mang án tử hình, một người cháu cụ lĩnh án chung thân, vài người khác lĩnh án lâu năm, các vị ấy lại lớn tiếng đổ hết tội lỗi cho chính quyền. Không thấy vị nào thể hiện một chút ân hận rằng mình đã tham gia kích động gia đình cụ. Liệu những người độc ác có đáng tin không?


[1] Siu, K., & Chan, A. (2015). Strike Wave in Vietnam, 2006–2011. Journal of Contemporary Asia, 45 (1), 71–91.

[2] Looking Back on 10 years of Developing Harmonious, Stable and Progressive Industrial Relations in Vietnam. Industrial Relations Bulletin, Vol. 29 (II), Center for Industrial Relations Development. Ministry of Labour-Invalids and Social Affairs.

Tổn thất của Liên Xô trong thế chiến II

Có khoảng 23-27 triệu người Liên Xô đã thiệt mạng trong Thế Chiến II, trong đó có gần 9 triệu quân nhân và 18 triệu là dân thường. Tổng thiệt hại về nhân mạng của các nước châu Âu, châu Mỹ còn lại trong Đồng Minh chưa bằng 1/3 của Liên Xô. Anh, Mỹ mỗi nước có khoảng 300,000-400,000 người thiệt mạng. Pháp khoảng 630,000 người thiệt mạng. Chưa nói đến những thiệt hại khác của Liên Xô như số người bị thương tật thường nhiều gấp vài lần số người chết, quốc gia bị tàn phá, tổn thất bao nhiêu vũ khí, khí tài.

Thế mà gần đây lại có một số người lại so sánh là Đồng Minh đã tài trợ bao nhiêu vũ khí, khí tài cho Liên Xô để đánh nhau với Phát xít Đức. Sinh mạng con người là vô giá. Bao nhiêu vũ khí, xe tăng, máy bay thì có thể bù đắp được hơn hai mươi triệu nhân mạng và vài chục triệu người khác bị tàn tật?

Khi có nguy cơ mất người thân, hầu hết các gia đình sẵn lòng bán hết cả nhà cửa, đi vay thêm tiền để cứu người bằng được. Huống chi ngân sách chi cho vũ khí, khí tài để tài trợ cho Liên Xô chỉ bằng một góc GDP của các nước đó.

Có thể nói, Liên Xô đã cứu cả Châu Âu trong Thế Chiến II khi mà một loạt các quốc gia Pháp, Bỉ, Hà Lan, Balan…đã đầu hàng. Ba Lan bị phát xít Đức giết chết 3 triệu người gốc Do Thái. Không có Liên Xô thì họ tiêu diệt hết người Do Thái. Ở Châu Á, dù không tham chiến trực tiếp, VN cũng có 1-2 triệu người chết đói vì phát xít Nhật cướp bóc lương thực để phục vụ chiến tranh và bắt người dân nhổ cây lương thực để trồng đay để phục vụ may bao tải dã chiến. Trung Quốc cũng chết 13 triệu người trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật.

Một số người lí luận rằng Stalin với Hitler bắt tay nhau. Ban đầu nước nào mà cũng vì lợi ích của nước mình. Các nước khác đầu hàng Hitler thì đâu phải là điều hay? Liên Xô không sinh ra phát xít, và không thuộc phe trục. Liên Xô rõ ràng thuộc phe Đồng Minh, tham gia đánh phe Trục ở châu Âu. Quan trọng nhất là phát xít Đức bị tiêu diệt và Liên Xô đã tốn rất nhiều nhân mạng cho điều đó. Khi các quốc gia đồng minh thoả thuận hợp tác cùng chống phát xít thì tay bắt mặt mừng. Chiến thắng thì hân hoan, khoe chiến công tưng bừng. Nhưng sau khi phát xít tan rồi, phương tây lại muốn diệt Liên Xô cho nên lại ra sức tuyên truyền bôi bẩn.

Xét cho cùng, nguyên nhân chủ yếu khiến loài người ghê sợ chiến tranh là vì có vô số người chết và mang thương tật suốt đời một cách tức tưởi, phi lý. Nếu như chỉ là thương chiến, thiệt hại vật chất, vũ khí, khí tài thì có lẽ chiến tranh chẳng đáng bị ghê tởm đến mức đấy.

https://thukyphaply.com/so-nguoi-chet-o-10-nuoc-tham-chien-chu-yeu-trong-chien-tranh-the-gioi-thu-hai/

 

 

Sunday, March 5, 2023

VÌ SAO PHONG TRÀO ĐỐI KHÁNG THẤT BẠI? CÔNG VIỆC GÌ CŨNG CẦN CÓ NGƯỜI TÀI VÀ TRIẾT LÝ ĐÚNG ĐẮN

Bài viết dưới đây sẽ giải thích nguyên nhân vì sao phong trào đối kháng thất bại ở VN

https://docs.google.com/document/d/18cskUFpsna8-YZgeb4k5bzRCEV4REtz8/edit


Những cuộc yêu nước ồn ào

 

“Tiếc quả hồng ngâm lại để cho chuột vọc

Tiếc cho người ngọc lại để cho ngâu vầy

Tiếc nước Nam ta xây dựng để cho Me Tây tung hoành”

 

Tây cuốn gói về nước hết rồi. Nhưng Me Tây lại mọc ra hơi nhiều.

Lúc bình thường, me tây rất cuồng tây. Cái gì giống tây đều đúng, cái gì khác tây đều sai. Nhưng cứ đến những dịp như 17/2, me tây lại tổ chức những “cuộc yêu nước”, “cuộc tri ân liệt sĩ”…ồn ào, náo loạn cả cõi mạng. Chỗ này khoe đã mấy chục năm liền cứ đến ngày này họ lại tụ tập nghĩa trang để thắp hương. Chỗ nọ phơi ảnh chiến trường, ảnh liệt sỹ tùm lum tà la. Rồi thì tranh thủ tố cáo chính quyền không tri ân liệt sỹ đầy đủ. Rồi thì cằn nhằn sách giáo khoa lịch sử chỉ có 11 dòng nói về Chiến tranh Biên giới.

Ờ, thì cũng là một kiểu yêu nước !

Khôi hài là ở chỗ, trong 364 ngày còn lại, thấy thương binh, cựu chiến binh nào có ý bênh chế độ là me tây xông vào chửi cho nát mặt, chụp cho cái mũ “bò đỏ”, “bưng bô”. (Sao hồi chiến tranh các ông không hi sinh hết đi? Sao lại sống sót trở về, rồi mỗi dịp 30/4, 7/5, 27/7, 19/8, 10/10, 22/12 lại kể lể cho đám hậu sinh chuyện đời binh nghiệp, rồi còn tự hào chiến thắng. Hẳn là các me tây nghĩ vậy).

Trong nhiều thập kỷ, giới me tây câu kết với đám mắt xanh mũi lõ và Việt kiều chống cộng để lên án, chửi bới những người có quan điểm khác mình. Cũng hằn học, cay cú, khóc than, cứ như dân Bolsa thứ thiệt.

 

“Gió đưa Tây cuốn về trời

Me tây ở lại chịu đời đắng cay”

 

Đỉnh điểm của phong trào “Me tây yêu nước” là những đợt có anh chị chống cộng cuồng nhiệt bị bắt vào tù.

+ Có chị ăn tiền hải ngoại để chống cộng điên cuồng, thường xuyên vỗ ngực tự hào “Tôi chống cộng”.

+ Có anh chửi mắng cựu chiến binh như súc vật vì ông này không nhất quán, nhiều lần chỉ trích lên án, nhưng đôi khi vẫn ủng hộ đường lối của đảng.

Nhưng cứ đến dịp 17/2, các anh chị ấy lại lôi xềnh xệch các tấm gương liệt sỹ ra để tưởng niệm, khóc than. Cứ làm như trong các liệt sỹ ấy không có ai là đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản. Cứ làm như họ không chiến đấu theo sự chỉ đạo của đảng. Các anh chị ấy được giới me tây ca ngợi ồn ào như những “anh hùng”. Me tây khuyến khích thanh niên quan tâm đến chính trị. Nhưng quan tâm thì phải chửi chính quyền, chứ ủng hộ thì lại là sai. Tiêu chuẩn yêu nước là phải: “Chống cộng, cuồng tây”!

Hàng năm, tôi hiếm khi đến nghĩa trang ngày 17/2. Nhưng tôi hay đi chùa mùng một. Nhiều chùa có bia tưởng niệm liệt sỹ thì tôi sẽ tranh thủ thắp cho họ một nén hương. Tôi biết, vô số người khác cũng vậy. Tri ân đâu nhất thiết phải đợi đúng dịp, đâu cần phải ồn ào.

Mẹ Đất Nước rất tinh. Mẹ thừa biết đứa nào yêu nước, tri ân liệt sỹ thực lòng, đứa nào chỉ giả vờ bởi triết lý rối loạn, lùng bùng.

Có nhiều người xót ruột vì kiều bào gắn bó với VNCH từng bị ngược đãi. Họ lên án chính quyền không thực tâm hoà giải dân tộc? Nhưng hoà giải dân tộc phải là nỗ lực từ cả hai phía. Ở những lĩnh vực khác, Việt Kiều vẫn thoải mái đi đi về về, hợp tác làm ăn, thì có gì mà phải hoà giải. Còn với những Việt kiều làm chính trị, suốt ngày tuyên truyền chống cộng, kích động phá phách thì hoà giải gì? Thỉnh thoảng họ lại kêu toáng lên về một vụ ngược đãi nào đó. Nhưng, thường đó là sự đáp trả việc họ gây ra vụ phá phách nào trước đó. Bản thân họ đã bao giờ thể hiện thiện chí gì đâu mà hoà giải?

Tôi là người gốc miền nam. Họ nội tôi gắn bó với VNCH và chính quyền Pháp thuộc hơn chế độ ngày nay. Chỉ riêng bố tôi từng tham gia kháng chiến. Họ nội tôi cũng từng chịu đựng nhiều sự ngược đãi sau 1975 cho nên tôi thừa hiểu họ nghĩ gì, cho dù trong họ tộc không bao giờ nói chuyện chính trị.

Xét cho cùng, sự bệnh hoạn và lụn bại của cộng đồng đối kháng cũng chỉ vì tư duy “chống cộng, cuồng tây”. Sau nhiều năm suy ngẫm, giờ đây tôi nghĩ thế này:

 

1.  Những người trong nước có quan điểm chính trị khác biệt phải hoà giải với nhau trước tiên. Không thuyết phục được nhau thì thôi, ai giữ quan điểm của người đấy. Không có ai là “bò vàng”, “bò đỏ”. Phải nỗ lực ứng xử lịch lãm, chung sống hoà bình, cùng xây dựng xã hội văn minh.

2.  Những người trong nước nhưng có thù hận với chế độ thì quan điểm thường cũng mất tính khách quan. Nếu họ thể hiện được sự cao thượng, vượt lên thù oán thông thường để nghĩ về tương lai của quốc gia thì mới đáng khen, nếu không chỉ là ham muốn trả thù tầm thường. Dĩ nhiên, chẳng thể kỳ vọng nhiều gì ở cộng đồng này, bởi ham muốn báo thù là một động cơ mạnh mẽ của con người. Thế nên ý kiến của họ thường chỉ để tham khảo.

3.  “Chống cộng” chỉ là quan điểm cực đoan, chia rẽ dân tộc, phỉ báng tiền nhân, bôi nhọ các thành tựu, chiến thắng chân chính của dân tộc, không thể phù hợp để tuyên truyền ở VN.

4.  Những người không có quốc tịch, cho dù là Việt Kiều, thì không có quyền công dân. Nếu là người lịch sự và hiểu biết, họ sẽ hiểu rằng họ không có quyền bức xúc, lên án thể chế chính trị của VN, bởi theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị” của Liên Hợp Quốc, có hiệu lực từ năm 1976, các dân tộc có quyền tự quyết về thể chề chính trị. Ý kiến của họ chỉ để tham khảo.

5.  Công dân VN phải quan tâm đến quyền lợi và ý kiến của những công dân khác hơn hẳn người nước ngoài. Nên hiểu rằng người nước ngoài thường không đủ cả “Tâm” lẫn “Tầm” để bàn về chính trị VN.

 

 

=====================

 

Dưới đây là bài viết của nhà báo Hoàng Hải Vân, một cựu chiến binh, người nhiều lần bị các me tây chụp mũ “bò đỏ”:

 

KHÔNG NÊN DẠY NGƯỜI KHÁC PHẢI YÊU NƯỚC THẾ NÀO

Thời Quốc xã, người Đức tự cho mình là những người yêu nước nhất hành tinh. Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, các nước thắng trận đã áp đặt các điều khoản bất công lên nước Đức bằng hoà ước Versailles 1919, khiến cho nước này nhục nhã không ngóc đầu dậy được. Và Hitler đã tuyên bố xé bỏ hoà ước này, nhanh chóng khôi phục kinh tế và tái vũ trang nước Đức để trả thù nỗi nhục thua trận. Chính tên đồ tể này đã khơi dậy cao độ tinh thần yêu nước của người Đức, dùng tinh thần yêu nước làm ngọn cờ tập hợp đám đông. Chính đám đông đã đưa Hitler lên cầm quyền, bằng con đường dân chủ. Và điều gì đã xảy ra với thế giới thì mọi người đã rõ.

Khi Hitler đã nắm chính quyền, lòng yêu nước của người Đức tiếp tục dâng cao, nhưng yêu nước thì phải đứng dưới ngọn cờ Quốc xã. Mọi sự yêu nước theo cách khác đều bị sát hại hoặc bị đưa vào trại tập trung. Thời đó, nước Đức là quốc gia có nhiều cờ xí nhất.

Sau Đại chiến 2, hơn ai hết người Đức đã hiểu ra cái giá mà mình phải trả. Cộng hoà liên bang Đức đã đi con đường riêng, lấy thị trường tự do làm nền tảng, đã tạo một sự phát triển ngoạn mục nhất châu Âu và nước Đức thống nhất đã tiếp tục đi theo con đường ấy với một tầm cao mới. Nước Đức ngày nay là một quốc gia khoan dung ít cờ xí nhất trên thế giới. Quốc kỳ Đức không được treo bừa bãi khắp nơi, nó chỉ được treo đúng nơi đúng chốn. Người Đức rất sợ tinh thần yêu nước khơi dậy không đúng chỗ, họ nhất định không để dân tộc mình đi theo "vết xe đổ" của lịch sử. Người Đức tự do ngày nay, dù yêu nước hay không yêu nước, đều sống hoà bình khoan dung lẫn nhau trên tinh thần pháp trị, không ai ép người khác phải yêu nước hay không yêu nước, người yêu nước theo cách này không ép người yêu nước theo cách kia phải yêu theo cách của mình.

Những "điều tốt" đều đáng hoan nghênh, nhưng khi những "điều tốt" trở thành chuẩn mực của đám đông bắt thiểu số phải phục tùng thì luôn diễn ra nguy cơ đầu rơi máu chảy. Trong xã hội tự do, con người chỉ cần tuân thủ luật pháp và không làm điều gì gây hại cho người khác. Buộc người khác phải làm "điều tốt" khi họ thấy không thích, trước sau gì cũng sẽ dẫn đến xã hội nô lệ được cai trị bằng súng ống và roi vọt.

Văn nghệ sĩ lề trái toàn tung hô đám chống cộng

“Trai phàm phu bất mãn, phỉ báng tiền nhân, mơ giành vé tị nạn. 

Gái háo danh bất tài, làm đĩ chống cộng, mộng giật giải nhân quyền.”


Hai câu thơ đó lột tả một hiện tượng nổi cộm của cộng đồng đối kháng VN.

 

Người Việt đã kém là kém đồng đều. Lề phải kém, lề trái cũng kém. Sự yếu kém chẳng của riêng ai. Văn nghệ sỹ tây có Sartre, Camus. Vừa làm văn, vừa định hướng tư tưởng cho xã hội. Văn nghệ sĩ ta thì chỉ là…văn nghệ sỹ mà thôi. Ngoài việc bất mãn, chửi bới, họ chẳng định hướng được cái gì ra hồn.

+ Lên án, phỉ báng những người không quan tâm đến chính trị, và những người có quan điểm chính trị khác mình.

+ Bới móc, bôi nhọ các liệt sỹ. Tung hô đám chống cộng như các anh hùng.


Hình như quý vị không hiểu “CHỐNG CỘNG” nghĩa là gì? Con ChatGPT còn biết Chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) là một chủ nghĩa, giống như bất kỳ chủ nghĩa nào khác, đều có ưu điểm và nhược điểm. Hiện nay toàn bộ giới lãnh đạo đều là đảng viên cộng sản. Tuyên truyền chống cộng sẽ khiến họ cảm thấy lo ngại, cản trở đổi mới chính trị. Chống cộng nghĩa là chà đạp lên công lao, xương máu của cha ông, bôi nhọ các chiến thắng của dân tộc thế kỷ 20 bởi đều do đảng cộng sản lãnh đạo. Chưa kể chống cộng gây ra mất đoàn kết, không thể xây dựng xã hội văn minh. VN hiện nay có 9.2 triệu người có công với cách mạng, cộng thêm thân quyến của họ và cộng đồng những người tự hào với những chiến thắng của quân đội, tổng cộng lên tới vài chục triệu người có gắn bó với cộng sản, chưa tính đến những người thành đạt, đổi đời nhờ chế độ. Thế nên đám chống cộng chỉ có thể là rác rưởi, cực đoan, cuồng tín, không thể coi là đấu tranh vì dân tộc.

Ở Úc có cô KN còn khá trẻ, thủ lĩnh của một phong trào thanh niên. Tuy là con gái của một cựu sỹ quan VNCH, nhưng cô quyết định từ bỏ quan điểm “chống cộng” mà thay bằng quan điểm “chống độc tài”. Mặc dù khu vực cô sinh sống là nơi cư trú của cộng đồng Việt kiều tị nạn, vốn mang thù hận nặng nề, quan điểm của cô vẫn được hoan nghênh nhiệt liệt. Một người sinh ra và lớn lên ở hải ngoại có xuất thân như mà còn hiểu rằng tư duy “chống cộng” không phù hợp với bối cảnh VN. Vậy mà những người sống trong nước, thường xuyên theo dõi chính trị lại không hiểu được? Dĩ nhiên, ngay cả quan điểm "chống độc tài" đã thật sự phù hợp để tuyên truyền ở trong nước hay chưa còn là điều cần phải suy nghĩ thêm. Hay có thể chỉ cần một khẩu hiệu đại loại như "tăng cường dân chủ hoá". Những rõ ràng từ bỏ quan điểm "chống cộng" là điều nên làm.

Nhiều quý vị có lẽ buồn phiền vì quá ít người dấn thân đấu tranh đâm lú lẫn. Tôi đã giải thích về điều này trong bài: “Chính trị đối kháng: công việc gì cũng cần có người tài và triết lý đúng đắn”. Chính trị lề trái VN từ 1975 đến nay bị phương tây, giới chống cộng hải ngoại, và đám có thù hận với chế độ lũng đoạn. Thế nên triết lý, tổ chức, nhân sự đều bệnh hoạn, đương nhiên không thể thu hút, giữ chân được những người có tài, có trình độ, có nhân cách, cho nên lụn bại, tan rã là tất yếu.

Những quý vị có thù hận với chế độ thì không tính. Điều kỳ lạ là một số người chẳng có thù oán gì, thậm chí bản thân là “công thần” hoặc thân nhân là liệt sỹ, thương binh, hay từng bị giam cầm trong nhà tù thời Pháp, Mỹ cũng tung hô đám chống cộng. Cách đây mấy năm còn có một nhóm văn nghệ sĩ lề trái tụ tập bới móc, bôi nhọ chị Võ Thị Sáu. Bài học Đông Âu vẫn còn sờ sờ ra đấy. Tôi lưu ý quý vị rằng, nếu đảng khác lên nắm quyền thì khả năng cao là các đám chống cộng sẽ tuân lệnh các quan thầy mắt xanh, mũi lõ của chúng nó, trả thù, sỉ nhục thân nhân và bản thân quý vị.

Công ước Quốc tế về “Các Quyền Dân sự và Chính trị” của Liên Hợp Quốc có hiệu lực từ 1976 quy định rằng các dân tộc đều có quyền tự do quyết định thể chế chính trị của nước mình. Đến nay đã có 239 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia công ước này. Công ước này cũng hàm nghĩa rằng người nước ngoài không được phép can thiệp vào các vấn đề nội bộ như Tự Do, Dân chủ của VN. Thế nhưng các chính phủ phương tây cố tình không giải thích cho công dân họ hiểu để tôn trọng thể chế chính trị của nước khác.

 

Chính trị không phải là trò đùa. Phải xác định rõ ràng:

+ Tư tưởng chống cộng chỉ là cực đoan, cuồng tín.

+ Người nước ngoài không có quốc tịch, cho dù là Việt kiều, thì không có quyền công dân và không có quyền bức xúc, lên án về các vấn đề tự do, dân chủ ở VN.

+ Tôn trọng khác biệt: Tôn trọng lựa chọn nghề nghiệp và quan điểm chính trị của những người khác trong xã hội. Thực tế cho thấy, cộng đồng đối kháng VN hiện nay thậm chí kém hơn mức trung bình của trí thức trong xã hội cả về trình độ và nhân cách.

Các nước phương tây đều đã ký “Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị”. Nhưng trên thực tế, họ tuyên truyền chống cộng ở khắp nơi để bảo vệ các giá trị tự do, dân chủ ở nước họ. Có nghĩa là họ không thật sự tôn trọng công ước đấy. Nhưng VN có các giá trị khác. Đặc biệt là phải tôn vinh những người đã đóng góp công lao, xương máu cho công cuộc giành độc lập, tự do, và thống nhất tổ quốc, và ghi nhận công bằng những công lao của đảng cộng sản. Chính vì vậy, tự do, dân chủ là quan trọng nhưng phải cân nhắc, để không chà đạp lên các giá trị ấy.

Trên đời làm gì có thứ tự do tư tưởng tuyệt đối. Hiện nay, Mỹ cấm các đảng viên cộng sản nhập quốc tịch, bao gồm cả văn nghệ sĩ. Không phải là đảng viên nhưng thường tuyên truyền cho CNCS xem họ có để yên không? Lại nhớ vụ hai bố con Samantha Smith, tuy không phải văn nghệ sỹ, nhưng chỉ vì ủng hộ hoà đàm với Liên Xô mà bị rơi máy bay. Hay nghệ sỹ phản chiến John Lennon bị ám sát ở New York thời chiến tranh lạnh, không ai dám chắc có phải vì chính trị hay không.

Gần đây nhiều người thắc mắc vì sao một loạt văn sỹ nổi tiếng không có tên trong sách giáo khoa. Đưa tên họ vào thì làm sao giáo dục chính trị cho các học sinh non nớt và cộng đồng dân trí thấp? Có người lập luận rằng Trần Dần dính vụ nhân văn giai phẩm vẫn được vinh danh. Trần Dần đã qua đời. Hơn nữa những phát biểu của ông ít ảnh hưởng đến thời nay. Để cho các ông bà văn nghệ sĩ nhận thức yếu kém, đang sống, có bài trong sách giáo khoa thì chẳng khác nào giúp họ tuyên truyền những quan điểm bậy bạ.

Hiện nay, không có ai trong độ tuổi lao động, am hiểu về quản trị nhà nước tham gia lề trái. Không chỉ văn nghệ sỹ mà hầu hết giới trí thức lề trái nói chung đều không đủ kiến thức cần thiết để hiểu về các vấn đề chính trị phức tạp. Đại đa số lề trái cũng không có năng khiếu triết học cho nên tư duy về phải-trái-đúng-sai rất méo mó, “Chỉ thấy cây, mà không thấy rừng”. Nhiều người còn vì "cái tôi" quá lớn cho nên không có khả năng thừa nhận sai lầm. Một số người ra khỏi đảng quay lại chỉ trích đảng là bình thường. Nhưng việc họ hàm hồ khái quát: “những đảng viên không từ bỏ đảng là cơ hội” là không tử tế, trung thực. Việc họ khái quát rằng: “lề trái là lề dân”, “lề phải chỉ toàn những kẻ hèn nhát, cơ hội” cũng là không tử tế, trung thực.

 

LƯƠNG TRI PHỔ QUÁT: VỊ THẾ KHÁC BIỆT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM, TRUNG QUỐC, NGA SO VỚI ĐÔNG ÂU

Tôi là nhà nghiên cứu, không phải là đảng viên. Trong bài viết này tôi muốn nói về sự khác biệt về vai trò của đảng cộng sản đối với các dân tộc trên thế giới và về lương tri phổ quát, nghĩa là những ứng xử chung của các dân tộc. Hiểu được điều này sẽ giúp chúng ta đánh giá chính trị VN tốt hơn.

VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ LƯƠNG TRI PHỔ QUÁT 

Ở nhiều nước Đông Âu, vai trò của đảng cộng sản khá mờ nhạt, không có công lao gì đặc biệt đối với dân tộc. Đảng cộng sản ở nhiều nước Đông Âu do ngoại bang (Liên Xô) thành lập hoặc chuyển đổi, biến thành một thứ bù nhìn của ngoại bang. Công cuộc đấu tranh chống Liên Xô ở các nước này thực chất là chống lại sự can thiệp của ngoại bang. Nhưng sau này phương tây và giới chống cộng ở các nước này cố gắng diễn giải đó là đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản. Thế nên người dân các nước này có ác cảm với chế độ cộng sản.

Tuy nhiên, ở các nước như Việt Nam, Trung Quốc, và Nga, đảng cộng sản rất gắn bó và có công lớn đối với dân tộc. Ở Trung Quốc, đảng cộng sản có công chấm dứt nội chiến Quốc-Cộng, thống nhất đất nước, và từ 1980s đến nay, họ đưa Trung Quốc vào quỹ đạo trở thành siêu cường hàng đầu thế giới. Ở Nga, đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân chiến thắng phát xít và biến Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường mạnh nhất thế giới. Chính vì thế, ngày nay dù đảng cộng sản không còn nắm quyền lãnh đạo, người Nga vẫn đánh giá cao các nhà lãnh đạo như Stalin và hoài niệm về Liên Xô. Năm 2000, quốc hội Nga đã lấy nhạc quốc ca Liên Xô làm nhạc quốc ca Nga, chỉ sửa lại phần lời cho phù hợp với thực tế. Một bài báo năm 2021 của đài FRI cũng phải thừa nhận rằng người Nga vẫn coi Stalin là anh hùng dân tộc, bất chấp phương tây ra sức bôi nhọ ông. 70% dân Nga coi sự nghiệp chính trị của ông là tích cực [1]. Những cuộc điều tra khác cũng cho thấy người Nga đánh giá cao các lãnh đạo đã nâng tầm Liên Xô nước Nga như Putin, Stalin và đánh giá thấp những người làm suy yếu nước Liên Xô như Gorbachev, Elsin. Còn ở VN, đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân giành được nhiều thắng lợi quân sự trước ngoại bang, đặc biệt là những chiến thắng chấn động địa cầu như trận Điện Biên Phủ và trận Điện Biên Phủ trên không.

Lương tri phổ quát là tư duy giống nhau của mọi dân tộc trong những tình huống tương tự. Trong bài viết này, tôi muốn nói đến lương tri phổ quát trong việc trân trọng những chiến thắng trước ngoại bang và tri ân những người đã phục vụ tổ quốc. Mọi chiến thắng và thành tích trên đấu trường quốc tế, bất kể trong lĩnh vực nào (quân sự, thể thao, giáo dục, khoa học,v.v…) đều là niềm tự hào của các dân tộc. Chừng nào còn đường biên giới quốc gia, sẽ không có dân tộc nào trên thế giới chối bỏ những niềm tự hào đó. Tri ân những người đã đóng góp công lao, xương máu trong các cuộc chiến tranh với ngoại bang cũng là hành vi phổ quát của tất cả các dân tộc trên thế giới, bất kể chế độ chính trị.

Chính vì lương tri phổ quát cho nên về lâu về dài, đa số người Việt, người Trung Quốc, và người Nga sẽ không bao giờ thù ghét chủ nghĩa cộng sản như phương tây mong đợi. Ở Liên Xô, những người sống cùng thời với Stalin có thể nghĩ rằng đó là thời kỳ khủng khiếp. Nhưng các thế hệ sau này tư duy công bằng hơn. Họ so sánh những vi phạm nhân quyền của Stalin với các tổng thống Mỹ cùng thời (đàn áp/bức hại cộng đồng da màu, ngược đãi phụ nữ, bóc lột công nhân tàn tệ) và thấy cũng chả khác gì nhau. Chính vì vậy, họ đánh giá cao chiến thắng phát xít và vị thế mà Stalin đem lại cho Liên Xô. Một vấn đề nữa là tri ân những người đã đóng góp công lao, xương máu cho tổ quốc. Lấy ví dụ, nước Mỹ can thiệp quân sự khắp thế giới và nhiều lần phải thừa nhận đó là sai lầm, không có lợi gì cho quốc gia. Nhưng chỉ có vài người phải chịu trách nhiệm về các cuộc chiến tranh. Người Mỹ luôn luôn tri ân các tướng lĩnh thừa hành và binh lính, bởi những người này có nghĩa vụ tuân thủ tuyệt đối mệnh lệnh của cấp trên, tham chiến để phục vụ tổ quốc. Người Mỹ hiểu rằng họ phải tri ân và không có quyền lên án, chê cười những sỹ quan và binh lính cấp thừa hành. Bởi nếu không, sau này mỗi khi đất nước cần tham chiến binh lính và sỹ quan sẽ chống lệnh, đào ngũ hết, để đợi công chúng tranh cãi vài chục năm xem cuộc chiến đó là đúng hay sai, chính nghĩa hay phi nghĩa. Đến nay đa số người Mỹ đều cho rằng việc Mỹ tham chiến ở VN là sai lầm, nhưng John McCain vẫn là anh hùng dân tộc. Ai dám có lời lẽ thiếu trân trọng ông tham chiến ở VN sẽ bị cả xã hội Mỹ ầm ầm lên án. Huống chi ở VN, những chiến thắng trước ngoại bang trong thế kỷ 20 là có thật, đem đến niềm tự hào thật sự cho dân tộc.

Phương tây thường cố gắng biện bạch rằng người dân ở các nước này không cần tự do, dân chủ. Đài RFI dẫn lời bà Khrushcheva, cháu gái của Tổng bí thư Khrushchev: “Người Nga chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi không hề thích được tự do (…) Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, sự vô chính phủ hoành hành. Đối với chúng tôi, dân chủ đồng nghĩa với hỗn loạn, tội phạm, nghèo đói, thổ hào cát cứ và sự thất vọng. Trong nhiều thế kỷ, chúng tôi tìm kiếm lòng tự trọng từ Nhà nước. Chúng tôi hoài nhớ những vị quân vương xưa, những người đảm bảo trật tự, khêu gợi cảm giác ái quốc và khiến chúng tôi tin rằng Nga là một dân tộc vĩ đại” [1]. Bà Khrushcheva chỉ nêu lên một lý do là người Nga muốn phục hồi vị thế siêu cường của thế giới. Người Trung Quốc cũng có khát vọng ấy. Nhưng đó không phải là lý do quan trọng nhất. Lý do quan trọng nhất là tuyên truyền của phương tây đi ngược lại với lương tri phổ quát của nhân loại, bao gồm cả chính họ. Gần đây, chính quyền Mỹ công khai tuyên bố Trung Quốc và Nga là kẻ thù số 1 và 2 càng khiến cho người dân hai nước này hết ảo tưởng vào phương tây.

 

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC THẾ HỆ

Ở VN, có một nhóm khá đông, có lẽ đến vài triệu người, có hận thù với chế độ. Đó là những người phải chịu đựng những ngược đãi khi đảng cộng sản lên nắm quyền (v.d., những người hưởng bổng lộc thời Pháp thuộc, các quân cán chính VNCH và thân quyến). Đó còn là những người bị thiệt hại, oan ức do những sai lầm của chính quyền, chẳng hạn những dân oan bị mất nhà, mất đất, những người chịu án oan sai, hoặc có thân thân bị chết oan, tàn tật oan do sai phạm của lực lượng chấp pháp. Có thể gọi chung đó là “nhóm có thù hận với chế độ”.

Còn một nhóm khác cũng oán ghét chế độ. Đó là một số “công thần”, những người đã đóng góp công lao, xương máu trong các cuộc chiến tranh nhưng “sốc nặng” thời hậu chiến, bởi thực tế khác xa với những gì họ hình dung. Đó còn là nhiều cụ hưu trí, vốn không có thù hận với chế độ, nhiều người được chính quyền cho đi du học và/hoặc tạo điều kiện để có công danh địa vị trong xã hội. Thế nhưng họ có vẻ khá cay nghiệt với chế độ và hối thúc hậu bối đấu tranh để đổi mới chính trị. Nhiều người buộc tội họ cơ hội, vô ơn. Dù thông cảm với nguyện vọng đổi mới của họ, tôi cũng không khỏi băn khoăn về sự cay nghiệt ấy. Nhưng gần đây, đọc một số bài viết của họ, tôi chợt hiểu, có lẽ họ đã trải qua rất nhiều điều tồi tệ của thời bao cấp. (Một xã hội tù túng cả về vật chất lẫn tinh thần với nhiều lãnh đạo yếu kém). Những người là đảng viên thì còn phải chịu đựng những bất cập khác trong đường lối của đảng. Tất cả những điều đó đã gây cho họ những “chấn thương tinh thần”, tuy không rỉ máu như những vết thương của nhóm thù hận với chế độ. Có thể gọi chung đó là những “nạn nhân của thời bao cấp”.

Mang trong lòng mối thù hận hay oán ghét khiến cho những người đó nhìn nhận xã hội qua một lăng kính hằn học, cay nghiệt hơn những người khác. Chính vì vậy, họ khó có thể cảm nhận được xu hướng thay đổi tiến bộ của xã hội VN ngày nay. Những người đã từng là đảng viên có lẽ cũng ảo tưởng thái quá về sự tốt đẹp của các đảng phái ở phương tây. Đấy là chưa kể nhiều người có “cái tôi” rất lớn. Họ đều là các nhà chính trị salon, không hiểu gì mấy về sự bẩn thỉu của chính trị nhưng rất ngoa ngôn. Hoặc do tư duy đạo đức của họ có vấn đề cho nên không thấy lề trái cũng rất bẩn thỉu. Họ luôn nghĩ mình là “tấm gương về tài năng, đức độ” cho toàn xã hội noi theo.

Nhưng thế hệ công dân thời bao cấp còn có nhiều người khác. Đó là đông đảo những người chấp nhận thời thế hoặc ít quan tâm đến chính trị. Đó còn là đa số những người tự hào vì bản thân hoặc gia đình đã đóng góp công lao, xương máu trong chiến tranh. Họ cảnh giác với những gì đã xảy ra ở Đông Âu và thận trọng với cụm từ “đổi mới chính trị”. Nhóm này chiếm đa số trong xã hội.

Thế hệ của tôi cũng lớn lên trong nghèo túng của thời chuyển đổi từ bao cấp sang kinh tế thị trường. Tôi học trường chuyên từ bé. Các bạn bè cấp II, III của tôi đều là những người giỏi giang, thành đạt. Hầu hết đàn ông trong số đó đều thường xuyên đọc tin tức chính trị lề trái. Họ cũng chứng kiến nhiều bất cập, yếu kém của khu vực công nhưng rất ít người bất mãn với chế độ (có lẽ dưới 1%). Tỷ lệ bức xúc sôi sục vô cùng nhỏ. Có lẽ là do với thế hệ tôi và sau tôi, cơ hội học tập, phát triển tài năng ở trong và ngoài nước, cơ hội định cư ở nước ngoài đã tương đối nhiều. Mức sống được cải thiện đáng kể. Khu vực tư nhân phát triển và cũng bộc lộ những xấu xí giống như khu vực công cho nên chúng tôi không đổ hết mọi khuyết tật của xã hội cho chính quyền. Đa số chúng tôi không nghĩ mình là nạn nhân của thời bao cấp.

Theo thời gian, các thế hệ có thù hận và oán ghét chế độ sẽ qua đi. Thế hệ F1 của họ có thể vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề từ tư duy của các bậc cha chú. Nhưng các thế hệ F2, F3 sẽ quên dần oán hận. Pháp luật tốt lên thì số lượng những sai phạm mới sẽ giảm đi, dần dần tiệm cận với các nước tiên tiến. Những người Việt sinh ra sau Đổi Mới sẽ tư duy giống như người Nga hiện nay. Họ sẽ đánh giá lịch sử một cách công bằng. Những gì thuộc về lương tri phổ quát sẽ tồn tại mãi.

[1] 65 năm Báo cáo “mật” : Tại sao Stalin vẫn được hoài niệm ở Nga?” FRI, 20/10/2021

 

Ngành ngoại giao, luân chuyển cán bộ, và dân chủ hoá

Ngoại giao là lĩnh vực rất quan trọng đối với hầu hết các quốc gia. Ở Mỹ, ngoại trưởng đứng đầu nội các, và ở vị trí thứ 4 trong danh sách kế vị chức tổng thống (sau phó tổng thống, chủ tịch hạ viện, và chủ tịch thượng viện). Ở VN, bộ trưởng bộ ngoại giao luôn luôn là UVTW, thậm chí nhiều người là UVBCT, Phó Thủ tướng.

Nhiều quan chức, lãnh đạo các cấp của ngành ngoại giao rất tâm huyết với dân chủ hoá nước nhà. Điều này cũng dễ hiểu. Các cán bộ ngành ngoại giao thường biết vài ngoại ngữ, đọc thông thạo báo chí nước ngoài. Nhiều người có thời gian công tác lâu năm (hoặc làm việc ở bộ phận quản lý của Bộ ngoại giao) ở các quốc gia dân chủ phát triển. Họ thấu hiểu những văn minh ở xứ người cho nên sốt sắng mong muốn áp dụng ở VN. Các cán bộ ngoại giao cũng thường ứng xử hoà nhã, khéo léo, có khả năng tạo ra môi trường thân thiện, dễ chịu hơn mặt bằng chung của xã hội.

Nhưng ngành ngoại giao làm việc chủ yếu với “chính sách đối ngoại”, trong khi tự do, dân chủ thuộc về “chính sách đối nội”. Ngành ngoại giao rất quan trọng đối với quốc gia bởi vì chính sách đối ngoại là lĩnh vực hết sức quan trọng chứ không phải vì các cán bộ ngành ngoại giao am hiểu về chính sách đối nội. Sự phân chia này đã bắt đầu từ khi đào tạo của ngành ngoại giao. Ở bậc đại học, cao học, các cán bộ ngành này chủ yếu học về chính sách đối ngoại. Khi ra công tác, họ cũng làm việc chủ yếu về đối ngoại. Họ có thể sống lâu năm ở nước ngoài, am hiểu chính sách đối nội của một vài quốc gia phát triển nào đó. Nhưng nói là họ có kinh nghiệm thực tiễn về chính sách đối nội của VN thì…có lẽ không đúng. Môi trường làm việc thân thiện, dễ chịu của ngành ngoại giao lại là nhược điểm, khiến họ khó hiểu sự phức tạp của vấn đề dân trí thấp và những bất mãn chế độ ở VN.

Ở VN, TW là nơi quyết định mọi đường lối, chủ trương quan trọng nhất của quốc gia. (Các chủ trương, đường lối liên quan đến dân chủ hoá chủ yếu cũng do TW quyết định). Sau khi TW ra quyết định, quốc hội chủ yếu chỉ thông qua. Để trở thành UVTW, các lãnh đạo của nhiều bộ ngành thường phải luân chuyển làm lãnh đạo ở địa phương (v.d. làm bí thư, chủ tịch UBND tỉnh). Điều này là do lãnh đạo các bộ, ngành thường chủ yếu làm việc với nhân viên của các bộ, ngành. Những nhân viên này thường có trình độ đại học trở lên và thông thạo một chuyên môn nào đó. Nếu họ bất mãn, chống đối hoặc làm việc không tốt thì có thể trừng phạt bằng cách sa thải, chuyển sang các công việc khác, hạ lương, thưởng. Nhưng lãnh đạo các tỉnh thường xuyên phải đối mặt với tỷ lệ dân trí thấp khá cao. Đa số công dân chỉ có bằng tiểu học, trung học. (VN hiện có chưa đến 29% dân số học đại học). Trình độ học vấn, trình độ văn hoá đều thấp. Nhiều mâu thuẫn, xung đột, nhiều ổ tội phạm và tệ nạn xã hội. Tỷ lệ bất mãn với chính quyền vì nghèo túng, an sinh xã hội kém, và các nguyên nhân khác khá cao. Thế nhưng các lãnh đạo tỉnh không thể “tống cổ” đám dân trí thấp, đầy rẫy bất mãn và tệ nạn ấy sang tỉnh khác được, và cũng không thể trừng phạt nếu họ không phạm pháp. Việc luân chuyển cán bộ như vậy sẽ giúp lãnh đạo các bộ ngành hiểu được sự phức tạp khi quản lý một quốc gia, bởi lẽ quốc gia cũng chỉ là một đơn vị địa lý cao hơn cấp tỉnh. Các lãnh đạo quốc gia cũng phải đối mặt với tỷ lệ cao dân trí thấp, đầy rẫy bất mãn và tệ nạn.

Cũng có một số lãnh đạo bộ, ngành, đoàn thể có thể vào TW ngay mà không cần luân chuyển làm lãnh đạo địa phương. Ví dụ lãnh đạo các đoàn thể (v.d. lãnh đạo đoàn thanh niên, các tổ chức đại diện cho công nhân, nông dân, dân tộc thiểu số), lãnh đạo một số bộ ngành thường xuyên chịu áp lực của công chúng như Y tế, Giáo dục; lãnh đạo các ngành như công an, quân đội vốn thường xuyên phải đối phó với các đối tượng phức tạp, và các âm mưu của ngoại bang kích động các nhóm dân trí thấp, các nhóm thiểu số. Trong khi đấy, nhiều lãnh đạo của các ngành như ngoại giao vào TW ngay là bởi vì đối ngoại là lĩnh vực rất quan trọng đối với quốc gia chứ không phải vì họ am hiểu về chính sách đối nội. TW quyết định rất nhiều vấn đề hệ trọng của quốc gia chứ không phải chỉ mỗi vấn đề liên quan đến đổi mới chính trị, cho nên cần nhiều chuyên gia am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau.

 

CẦN AM HIỂU VỀ DÂN CHỦ HOÁ ĐẾN MỨC NÀO?

Nhiều người thường xuyên viết trên lề trái được giới thiệu là cựu lãnh đạo các cấp ở khu vực công, (bao gồm các lãnh đạo ngành ngoại giao). Nhưng điều ấy chỉ đảm bảo họ có khả năng làm việc với cơ quan nhà nước một cách lịch sự, có văn hoá, chứ không đảm bảo là họ am hiểu về vấn đề họ muốn nói (ví dụ, về tự do, dân chủ). Họ đã từng thực sự nghiên cứu chuyên sâu hoặc có kinh nghiệm làm việc thực tiễn về một chủ đề nào trong đó chưa?

Ở các quốc gia phát triển, đại biểu quốc hội và các quan chức nhà nước thường tổ chức gặp gỡ công dân, chủ yếu là để lắng nghe nguyện vọng của dân hoặc để giải thích, vận động, thuyết phục công chúng về chủ trương, đường lối của chính quyền. Nhưng đấy không phải là những cuộc đối thoại với các chuyên gia. Hoặc một tổ chức chính trị-xã hội lớn nào đó có khả năng gây áp lực lên chính quyền cho nên chính quyền bắt buộc phải gặp gỡ lãnh đạo của tổ chức đó để đàm phán.

Tuy nhiên ở VN, các quý vị lề trái, kể cả cựu lãnh đạo các cấp, thường không có chuyên môn về lĩnh vực tự do, dân chủ. Họ đọc báo rồi chỉ trích, lên án, nhưng không thật sự am hiểu ở mức chuyên gia. Ví dụ, họ có biết rằng các nghiên cứu trên thế giới đều chỉ ra Dân chủ không có mối liên quan trực tiếp đến Phát triển? Hoặc các hoạt động tham vấn cộng đồng về luật lệ, chính sách cũng là dân chủ? Dân chủ đâu phải chỉ có mỗi chuyện đa đảng và bầu cử đa đảng. Ý kiến của họ thường rất chung chung, kiểu như “hãy dân chủ hoá để giải phóng nguồn lực”, “hãy cho phép xã hội dân sự”, nhưng cụ thể từng bước cần phải làm gì thì họ không biết. Họ cũng không phải là một tổ chức chính trị lớn, quy củ, để có thể tạo ra áp lực đáng kể khiến chính quyền buộc phải ngồi vào bàn đàm phán.

Điều chắc chắn là đảng cộng sản không thể thực hiện ngay những mô hình bầu cử dân chủ, đa đảng, tam quyền phân lập, tự do báo chí, xã hội dân sự, tổ chức chính trị hoạt động thoải mái như phương tây ở thời điểm hiện nay. (Lý do thì tôi đã giải thích trong bài “Vì sao đảng cộng sản cương quyết không để mất chế độ”). Nhưng họ vẫn có thiện chí đổi mới chính trị một cách tiệm tiến. Ví dụ có 1000 bước để đạt được dân chủ như phương tây, họ cần những người đưa ra những đề xuất thuộc về 20 bước đầu tiên. Các lãnh đạo nhà nước không tự nghĩ ra 20 bước đấy. Những người đề xuất 20 bước ấy là chuyên viên các bộ ngành, các chuyên gia nghiên cứu hoặc có kinh nghiệm thực tiễn, hoặc đôi khi là người dân. Lãnh đạo nhà nước chỉ phê duyệt hoặc bác bỏ các đề xuất đấy. Nhưng hiện nay rất ít người thực sự tâm huyết nghiên cứu để đưa ra những đề xuất như vậy. Nếu không có người đề xuất thì các lãnh đạo nhà nước cũng sẽ không làm gì. Hoặc chuyên viên các bộ ngành cũng có những đề xuất về đổi mới chính trị, nhưng không theo hướng “các công dân lề trái” mong đợi.

Tôi đồng ý rằng quốc hội và chính phủ rất nên thiết kế cơ chế để quan chức chính quyền và đại biểu quốc hội gặp gỡ công dân như ở phương tây. Riêng việc gặp gỡ như vậy đã là một bước tiến về mặt dân chủ.

Nhưng để có những cuộc đối thoại đúng nghĩa với các chuyên gia thì lề trái hầu như rất hiếm chuyên gia về dân chủ hoá. Hiện giờ các bộ ngành đều khuyến khích công dân đóng góp ý kiến để cải cách hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm cả các ý kiến tăng quyền công dân. Nhưng đó phải là những đề xuất, sáng kiến có thể áp dụng ngay hoặc chỉ cần sửa chữa đôi chút. Những ý kiến chung chung thường đăng ở báo chí lề trái như hiện nay thì chỉ là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi !”

 

Tin giả và trách nhiệm giải trình

Từ một clip không rõ ràng được quay từ toà nhà đối diện, nghĩa là người quay hoàn toàn không có khả năng tiếp cận hiện trường, vậy mà thiên hạ đồn đại một vụ nhiều quân nhân hiếp dâm một nữ sinh rất ly kỳ. Đại diện trường Quân sự quân khu 7 đã giải thích rằng thông tin nữ sinh bị hiếp dâm hoàn toàn là sai sự thật. Clip sau đó bị cắt ghép và lan truyền khắp nơi. Vậy mà nhiều người, bao gồm những người có trình độ cao, vẫn tiếp tục thắc mắc đòi giải trình. Có luật gia còn nêu câu“dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” để nhắc nhở trách nhiệm giải trình.

Nói dân trí người Việt thấp có lẽ cũng không oan chút nào!

Không hiểu họ muốn giải trình cái gì nữa? Chỉ cần giải trình nếu như có những bằng chứng tương đối rõ ràng tổn hại về vật chất hoặc tinh thần, hoặc có bằng chứng về hành vi gây hại. Ví dụ, có clip quay được cảnh quân nhân lột quần áo của nữ sinh, hoặc nằm đè lên người nữ sinh, thì mới cần giải trình thêm. (Ngay cả chụp ảnh được cảnh nằm đè lên người nhau cũng chưa chắc đã là hiếp dâm. Bởi vì có thể do trượt chân ngã hoặc có chuyện gì đó dẫn đến xô xát.) Hàng ngày, vô số kẻ thiếu thiện chí có thể sản xuất ra hàng trăm cái clip không rõ ràng, rồi cắt ghép thông tin. Không lẽ các cơ quan cứ phải chạy theo giải trình cả trăm vụ tố cáo điêu toa? Vậy thì lấy đâu ra thời gian để làm những việc khác quan trọng hơn?

Dĩ nhiên vẫn có một xác suất nhỏ nào đó thông tin bị bưng bít. Nếu có nghi ngờ, các nhà báo hoặc nhà điều tra có nghiệp vụ có thể sẽ tìm hiểu thêm. Mọi quốc gia đều có những vụ bưng bít thông tin. Nhiều khi do thiếu thời gian hoặc nhân sự có nghiệp vụ điều tra, họ vẫn phải chấp nhận xác suất đó.

Chỉ trích, nghi ngờ thì rất dễ. Nhưng nếu một người tự tin là có trình độ thì hãy thử đặt mình vào địa vị cơ quan bị buộc tội để tư duy. Khi ấy, có thể bạn sẽ hiểu những chỉ trích, nghi ngờ của mình thừa thãi đến mức nào. Một người có kiến thức về một lĩnh vực quản trị nhà nước thì không nên coi mình là nhân dân, mà phải là người giải quyết vấn đề. Trong bối cảnh đội ngũ chuyên viên, chuyên gia đều yếu kém, hãy tự hỏi: “Nếu không phải mình giải quyết vấn đề thì ai sẽ làm việc đó?”

 

CÓ NÊN CHIA SẺ CÁC THÔNG TIN TỐ CÁO KHÔNG RÕ NGUỒN GỐC?

Khi xuất hiện các thông tin tố cáo cá nhân/tổ chức không rõ xuất xứ thì người dân không nên tuỳ tiện phát tán. Cùng lắm chỉ nên liên hệ, khuyến khích người bị hại hoặc gia đình họ đăng tin công khai. Tuy nhiên, nếu khuyến khích họ đăng tin nhưng lại cố vấn cho họ thêm mắm muối, làm sai lệch bản chất của vụ việc, thì người khuyến khích cũng phải chịu trách nhiệm về tội xuyên tạc, vu khống.

Ở VN hiện nay, chính quyền nói chung không ngăn cản người bị hại hoặc gia đình họ tố cáo công khai. Ví dụ, việc tụ tập đông người thường không được khuyến khích. Tuy nhiên, những người bị hại trực tiếp trong nhiều vụ việc (v.d., nạn nhân của các công ty bán trái phiếu lừa đảo, những người mất nhà, mất đất oan ức) vẫn thường tụ tập khiếu kiện mà không hề bị công an không ngăn cản.

Nhưng ngay cả khi bản thân hoặc gia đình người bị hại đăng tin công khai thì cũng không nhất thiết thông tin đó là chính xác. Thế nên chỉ khi báo chí chính thống đưa tin hoặc có kết luận của toà án thì có thể đăng tin lại. Đấy là chưa kể nhiều vụ việc nhạy cảm. Ví dụ một người bị cưỡng bức nhưng gia đình họ không muốn công khai thông tin cho cả nước biết, để đỡ tổn thương tâm lý cho nạn nhân. Khi ấy người ngoài đưa tin lên mạng sẽ là làm hại nạn nhân.

 

VÌ SAO ĐẢNG CỘNG SẢN CƯƠNG QUYẾT KHÔNG ĐỂ MẤT CHẾ ĐỘ

Không ai yêu thích triết học mà lại phủ nhận sạch trơn Karl Marx. Ông vẫn là nhà tư tưởng vĩ đại của thế giới. Nhiều triết lý của ông đúng đắn cho nên đã góp phần cải tạo chủ nghĩa tư bản. Ví dụ, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân hay quyền bình đẳng cho tất cả mọi người. Chẳng có triết gia nào trên thế giới viết được toàn những điều đúng đắn. Chủ nghĩa tư bản cũng đầy rẫy tư tưởng dã man, mọi rợ. Hiện nay hầu như không có nước nào trên thế giới theo đuổi chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản nguyên gốc, mà đều có sự pha trộn nhiều loại tư tưởng khác nhau. VN cũng không phải là ngoại lệ.

Điểm yếu nhất của chủ nghĩa cộng sản là quyền tự do, dân chủ. Điểm yếu nhất của chủ nghĩa tư bản là bất bình đẳng. Soi chiếu vào hoàn cảnh VN thì không khó để thấy, khắc phục bất bình đẳng quan trọng hơn những tự do, dân chủ. Bất bình đẳng lớn cho nên đa số người dân vẫn rất nghèo, an sinh không đảm bảo. Cải thiện những thứ đó quan trọng hơn là những quyền bẩu cử tự do phù phiếm. Ngoài ra, phương tây hay chỉ trích về nhân quyền ở VN. Tuy nhiên, nhân quyền là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả quyền được khám chữa bệnh, quyền có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, quyền được học tập phổ thông của trẻ em vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, quyền bình đẳng giới, quyền của người đồng tính, các chính sách ưu tiên cho người yếu thế (người già, người tàn tật, người thiểu số, người di cư) v.v... Quyền mưu cầu hạnh phúc, không phải sống đói nghèo cũng thuộc về nhân quyền. Trên thực tế, VN làm khá tốt việc xoá đói giảm nghèo, cung cấp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, cơ hội học tập phổ thông cho toàn dân, quyền cho phụ nữ, quyền của người đồng tính, quyền cho người yếu thế. Thế nên VN hai lần được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.

Các nhà “đấu tranh dân chủ” ở VN rất kém hiểu biết về nhân quyền, nhưng bị phương tây giật dây, cho nên suốt ngày chửi bới linh tinh, thậm chí còn phản quốc. Ví dụ, họ ủng hộ các nhóm Tin lành Đề Ga, Tin lành Đấng Christ, đạo Giê Sùa. Trong khi đó là các nhóm tôn giáo kích động người thiểu số ở Tây Nguyên thành lập Nhà nước Đề Ga riêng (thủ phủ Ban Mê Thuật, tách khỏi VN), và kích động người H’Mông ly khai để thành lập Vương Quốc Mông ở Xiêng Khoảng, giáp biên giới Việt-Lào.

Ở VN, đảng cộng sản lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm phương tiện để đạt được mục đích chính là bảo vệ chế độ. Tuyên truyền của tuyên giáo cũng nhằm mục đích chính là để bảo vệ chế độ. Chế độ nào cũng phải có học thuyết nền tảng. Chủ nghĩa Marx-Lenin gần như là học thuyết duy nhất gần đây bảo vệ nền chuyên chính. Nhưng tại sao đảng cộng sản lại cương quyết không để mất chế độ? Có một số nguyên nhân chính sau đây:

+ Để đảm bảo được việc đền ơn, đáp nghĩa hàng triệu công dân đã đi theo đảng trong suốt 4 cuộc chiến tranh. (9.2 triệu người có công với cách mạng cùng với thân quyến của họ, tổng cộng lên tới vài chục triệu người).

+ Đảm bảo tôn vinh đầy đủ những chiến thắng và di sản đáng tự hào của 4 cuộc chiến tranh của dân tộc.

+ Hận thù từ cuộc chiến Nam-Bắc vẫn còn sâu nặng và tuyên truyền chống cộng của phương tây vẫn rất mạnh. Nếu để mất chế độ thì sẽ không thể kiểm soát được sự trả thù đối với những người cộng sản và những người đang phục vụ chế độ.

+ “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Hiện giờ đội ngũ chuyên gia còn kém, không thể có dân chủ đúng nghĩa. Bởi lẽ dân chủ chỉ là cơ chế. Quan trọng nhất là đội ngũ chuyên gia vận hành cơ chế đấy phải giỏi thì cơ chế mới vận hành tốt.

+ Lo ngại về dân trí thấp, mức thu nhập thấp, an sinh kém, nếu để mất chế độ dễ dẫn đến hỗn loạn, không có dân chủ đúng nghĩa.

+ Không ổn định chính trị thì không thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội.

+ Lo ngại về toàn vẹn lãnh thổ: Sự tan rã của Liên Xô đi kèm với mất đất đai và 15% dân số là bài học đau buồn đối với tất cả các quốc gia chuyển đổi. Nếu VN có sự xáo trộn chính trị thì rất dễ dẫn đến việc ngoại bang kích động ly khai, dẫn đến mất lãnh thổ.

 

Tôi cũng tin rằng các giảng viên triết học của VN còn kém, không thể giải thích một cách thuyết phục cho sinh viên về những lợi ích của triết học Marx-Lenin. Hơn nữa, họ không có sự kết nối giữa triết học và các ngành khoa học xã hội khác để hiểu được những ứng dụng của nó.

Nhưng tôi nghĩ rằng đường lối chính trị chung ở VN hiện nay không sai. Hãy thử đặt mình vào địa vị của nguyên thủ quốc gia, phải chịu trách nhiệm với số phận của hàng trăm triệu con người, bạn sẽ hiểu. Việc tiến hành đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, tự do báo chí đều dẫn đến suy yếu uy tín của đảng và làm tăng nguy cơ để mất chế độ. Thế nên họ rất ngần ngại.

Hồi 2013, hơn 100 nhân sỹ có danh tiếng ký kiến nghị đổi mới chính trị, trong số các đề nghị, có một đề nghị là Đảng đổi tên trở lại là Đảng lao động. Nhưng điều đó đương nhiên vô ích. Bởi vì điều xác định một đảng có phải là cộng sản hay không dựa trên triết lý nền tảng Marx-Lenin chứ không phải cái tên. Thời kỳ 1951-1976, đảng cộng sản lấy tên là Đảng Lao động. Hoặc Đảng lãnh đạo Lào hiện nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Nhưng phương tây vẫn gọi đó là các đảng cộng sản chính vì học thuyết nền tảng Marx-Lenin. Nhưng lý do đến giờ họ vẫn lựa chọn học thuyết đó thì đã giải thích trong bài.