Dạo này ý tưởng “giáo dục công dân toàn cầu” (GCED) bỗng trở nên ồn ào. Theo định nghĩa, công dân toàn cầu là “những cá nhân được trang bị kiến thức và kỹ năng để sinh sống và làm việc tại nhiều quốc gia khác nhau, có hiểu biết đa dạng về lối sống và văn hóa của nhiều nước trên thế giới. Sự ra đời và phổ biến của khái niệm này đã xóa mờ đi ranh giới giữa các quốc gia, qua đó mở ra cơ hội học tập, làm việc và định cư tại nước ngoài cho tất cả mọi người.” “GCED một quá trình trang bị cho người học các kiến thức chuyên sâu và quan điểm toàn cầu, có đầy đủ các kỹ năng và thái độ sống đúng đắn – làm việc chuyên nghiệp trong lĩnh vực học tập của họ để có thể làm việc hiệu quả sau khi tốt nghiệp ở tất cả mọi nơi trên thế giới với tư duy toàn cầu – hành động địa phương.”
GCED là một sáng kiến của OXFAM và
UNESCO. Một số quốc gia đã tích hợp các học phần này vào chương trình giáo dục
của họ như Ấn Độ, Philippines, Campuchia, Colombia, New Zealand, Mông Cổ,
Uganda. Một số quốc gia khác đã thành lập các trung tâm hợp tác giáo dục GCED
như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Campuchia, Lào, Indonesia, Nepal,
Bangladesh, và Việt Nam. GCED có lẽ là xu hướng giáo dục tất yếu trên thế giới.
Hiện nay, bộ giáo dục cũng đang tích cực thúc đẩy việc tích hợp GCED vào chương
trình phổ thông và đại học.
Tuy nhiên, mọi ý tưởng xã hội đều có
mặt phải và mặt trái. Đã có nhiều bài viết bàn về mặt phải của GCED, trong bài
này tôi sẽ viết về mặt trái của ý tưởng này.
1. NHỮNG CÔNG DÂN KÉM HIỂU BIẾT VỀ
CHỦ QUYỀN QUỐC GIA
Công dân toàn cầu có thể có một hoặc
nhiều quốc tịch. Những người tự nhận là công dân toàn cầu thường rất tự tin về
ngoại ngữ, kỹ năng làm việc và kiến thức quốc tế. Tuy nhiên, điều này dễ dẫn
đến ảo tưởng về hiểu biết của mình. Họ có thể đòi hỏi áp dụng những tri thức ở
các nước phát triển vào VN một cách mù quáng, trong khi lại rất kém hiểu biết
về chủ quyền quốc gia. Điều này đã từng xảy ra đối với hầu hết trí thức lề trái
và cấp tiến ở VN. Rất đông nhân sỹ, trí thức thành đạt, nổi tiếng cũng mắc phải
lỗi này.
Điển hình là phong trào đấu tranh đòi
dân chủ hoá đã diễn ra trong mấy thập kỷ nay với sự góp mặt của khá đông học
giả, nhân sỹ, trí thức thành đạt. Đòi hỏi mở rộng dân chủ hoá thì không sai.
Tuy nhiên, do thiếu kiến thức về quản lý nhà nước, kém hiểu biết về chủ quyền
quốc gia, những người này đã có nhiều hành vi lố bịch, gây hại cho quốc gia. Ví
dụ, việc giáo sư toán HT và tiến sỹ tin học NQA thành lập viện IDS với sứ mệnh
“ nghiên cứu, tư vấn các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế và xã hội” do
ông QA làm viện trưởng, ông HT là chủ tịch hội đồng khoa học (?). Tuy nhiên,
viện này được thành lập chủ yếu để hoạt động chính trị. Ông QA và các thành
viên như NN, NPT thường xuyên câu kết với các cá nhân và tổ chức hải ngoại,
kích động người dân VN “đấu tranh dân chủ, nhân quyền” nhưng thực chất là đấu
tranh chống chế độ, chà đạp lịch sử. Nhiều học giả, nhân sĩ, trí thức khác
cũng thường xuyên thậm thụt bày mưu kế phá phách với giới chính trị phương
tây và Việt kiều (các dân biểu, nhân viên sứ quán, các tổ chức nhân quyền như
Human Right Watch, Amnesty International, các tổ chức chính trị của Việt kiều,
các đài VOA, RFA, BBC). Họ không hiểu rằng người nước ngoài không đủ cả kiến
thức lẫn sự thành tâm để phán xét về chủ trương, đường lối chính trị, thể chế ở
VN.
Giống như đa số các quốc gia khác
trên thế giới, VN quy định đại biểu quốc hội và các quan chức chỉ có 1 quốc
tịch và phải thường trú ở VN. Gần đây, quốc hội cũng thông qua quy định công
chức, viên chức chỉ có 1 quốc tịch (trừ một số trường hợp đặc biệt hiếm hoi
được phép nhiều quốc tịch). Những quy định này nhằm đảm bảo công chức, viên
chức, đại biểu quốc hội phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc, không phục vụ
lợi ích của quốc gia nào khác. Việc liên hệ với các cá nhân, tổ chức nước ngoài
phải hết sức thận trọng, và phải được cấp trên cho phép. Thật ra, hầu hết các
quốc gia đều hết sức cảnh giác với sự can thiệp của ngoại bang vào công việc
nội bộ của nước mình. Quan chức, đại biểu quốc hội thường bị săm soi rất kỹ về
các mối quan hệ với hải ngoại. Thế nhưng ông QA và hầu hết các trí thức lề
trái, cấp tiến không hiểu điều này. Sau một chuỗi các hoạt động câu kết với
nước ngoài để chống phá chính quyền, họ vẫn vô tư ứng cử đại biểu quốc hội.
Những nhân sĩ, trí thức thành đạt,
rất nhiều kinh nghiệm sống, cả ở trong nước và quốc tế, mà còn như vậy thì các
thanh niên mới lớn còn lơ mơ về chủ quyền quốc gia đến mức nào.
2. NHỮNG CÔNG DÂN ƯU TIÊN LỢI ÍCH CỦA
NƯỚC NGOÀI HƠN LỢI ÍCH CỦA NƯỚC MÌNH
GCED rất chú trọng giáo dục về bảo vệ
môi trường thế giới và nhân quyền. Điều này cũng có mặt trái vì có thể khiến
học sinh, sinh viên khi ra đời sẽ ưu tiên lợi ích của nước ngoài hơn lợi ích
của VN, hoặc đấu tranh mù quáng để bảo vệ môi trường và nhân quyền.
Từ nhiều thập kỷ nay, nhiều thanh
niên, trung niên lề trái thường xuyên câu kết với các cá nhân hoặc tổ chức nhân
quyền ở hải ngoại như HRW, AI, BPSOS để “đấu tranh cho nhân quyền” ở VN. Họ hỗ
trợ Mỹ và EU lập các báo cáo nhân quyền để trừng phạt kinh tế VN vì vấn đề nhân
quyền, mặc dù hầu hết các vụ được nêu trong được mô tả một cách không trung
thực. Hầu hết những người bị “vi phạm nhân quyền” thật ra là những người vi
phạm pháp luật. Đặc điểm chung của những người này là hết sức tự tin về hiểu
biết của mình. Nhiều người còn khoe rằng họ rất giỏi tiếng anh, đã có nhiều
kinh nghiệm làm việc với các tổ chức quốc tế. Họ cho rằng việc “mách với quốc
tế” về các vấn đề nhân quyền ở VN là bình thường. Thế nhưng khi được hỏi vì sao
ở VN có rất nhiều chuyên gia được đào tạo bài bản và đã nghiên cứu lâu năm về
nhân quyền nhưng không câu kết với ngoại bang để đấu tranh như anh/chị thì họ
sẽ im lặng, không trả lời. Một số người còn hoang tưởng rằng chỉ có họ can đảm
đấu tranh, còn các chuyên gia kia thì hèn nhát, không dám đấu tranh.
Về bảo vệ môi trường, mấy năm nay đã
có một số lãnh đạo các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực môi trường bị phạt tù
vì tội trốn thuế. Tìm hiểu kỹ thì thấy, ngoài việc trốn thuế, một vài người
trong số này tích cực hỗ trợ EU thúc ép VN thành lập các tổ chức độc lập để
kiểm soát nghiêm ngặt hơn về vấn đề môi trường, trong khi năng lực của VN chưa
đáp ứng được. Các tổ chức đó cũng là công cụ để giúp EU có cớ trừng phạt VN về
vấn đề môi trường khi cần thiết. Những người khác bị phạt tù do không báo cáo
đầy đủ với cơ quan thuế về những đợt tài trợ của tổ chức nước ngoài cho các
hoạt động bảo vệ môi trường. Hoạt động của các tổ chức này thường thu hút rất
đông thanh niên tham gia, dẫn đến lo ngại về việc hình thành các tổ chức xã hội
dân sự.
3. KHUYẾN NGHỊ VỚI BỘ GIÁO DỤC
GCED có lẽ là xu hướng giáo dục tất
yếu của thế giới cho nên việc áp dụng các học phần này là cần thiết. Tuy nhiên
trong thời gian tới, có thể sẽ có nhiều tổ chức quốc tế núp bóng GCED để đào
tạo ra các “nhà hoạt động nhân quyền”, “nhà hoạt động môi trường” thế hệ mới.
Ví dụ, họ sẽ thành lập các tổ chức GCED ở hải ngoại để kích động thanh niên
trong nước, những công dân toàn cầu, đấu tranh vì “lợi ích toàn cầu”, hoặc đấu
tranh để thúc đẩy những “chuẩn mực của thế giới” về môi trường và nhân quyền. Bộ
giáo dục cần lồng ghép vào các học phần GCED một số tiết giảng dạy về những nội
dung mà tôi đã nêu ở mục 1 và 2. Cần nêu ví dụ cụ thể về những sai lầm của thế
hệ tiền bối để các thế hệ hậu sinh không mắc phải.
No comments:
Post a Comment