Dưới đây là một trích đoạn trong cuốn “Sự trỗi dậy của một cường quốc: cái nhìn từ bên trong” của Arthur Kroeber:
================
[Việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đã
có vai trò lớn đến đâu trong phát triển công nghiệp của Trung Quốc?]
(Arthur Kroeber)
"Quyền sở hữu trí tuệ là một vấn
đề gây tranh cãi giữa Trung Quốc và các đối tác thương mại lớn của họ - đặc
biệt là Hoa Kỳ - kể từ đầu những năm 1990. Nhiều công ty từ các nước phát triển
từ lâu đã phàn nàn rằng bằng sáng chế và nhãn hiệu của họ không an toàn ở Trung
Quốc, vì các công ty bản địa đã sao chép sản phẩm của họ một cách trắng trợn,
và chính phủ hầu như không làm gì để trừng trị những kẻ vi phạm. Các cuộc chiến
cấp cao, liên tục xoay quanh các vụ việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đã góp
phần dựng lên một câu chuyện phổ biến rằng Trung Quốc chỉ thành công về mặt
kinh tế là nhờ “những thực thi không công bằng”.(19)
Dung túng cho hành vi sao chép và
đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ là một chiến thuật thường được các quốc gia lạc
hậu về công nghệ sử dụng để đuổi kịp ranh giới công nghệ. Sự phát triển của
ngành công nghiệp đồ sứ ở châu Âu vào đầu thế kỷ XVIII phụ thuộc đáng kể vào
các báo cáo của các nhà truyền giáo dòng Tên về kỹ thuật gốm sứ Trung Hoa, mà
nhà nước Trung Quốc xem là bí mật thương mại. Việc đánh cắp cây chè mà Trung
Quốc cấm xuất khẩu đã cho phép người Anh thiết lập một nền công nghiệp chè ở Ấn
Độ. Vào đầu thế kỷ XIX, Hoa Kỳ đã đối xử rất thản nhiên với tài sản trí tuệ của
châu Âu, và tổ hợp dệt may lớn đầu tiên ở Lowell, Massachusetts, được thành lập
trên cơ sở gián điệp công nghiệp.(20) Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan phần nào đã dựa vào kỹ thuật đảo ngược và sao chép
các công nghệ của phương Tây, vi phạm các quy tắc bản quyền của phương Tây.
Trước khi Trung Quốc trở thành tâm điểm chính, chính phủ Hoa Kỳ cũng từng tham
gia vào các cuộc đụng độ về quyền sở hữu trí tuệ liên tục với các công ty Nhật
Bản và Đài Loan. Điều đáng nói ở đây không phải là có thể biện hộ về mặt đạo
đức cho những hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, mà đơn giản là những hành
vi đó là bình thường cho đến lúc một quốc gia có đủ quyền sở hữu trí tuệ của
chính mình để quyết định rằng việc bảo hộ hay đánh cắp tạo ra nhiều lợi ích
hơn. Sự thay đổi này xảy ra ở Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ XIX và ở các nền kinh tế
Đông Á là vào những năm 1980 và 1990. Trung Quốc cũng đã bắt đầu thay đổi với
việc thành lập các tòa án chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ và sử dụng án
phạt hình sự đối với một số hành vi vi phạm.
Trung Quốc được xem là có mức vi phạm
tồi tệ hơn so với nhiều nước đi trước, bởi vì các hành vi vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ của Trung Quốc có quy mô lớn bất thường, trong khi hệ thống pháp lý lại
yếu một cách bất thường và phải chịu sự kiểm soát từ chính trị, điều này gây
khó khăn cho bên bị đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ. Mặt khác, rốt cuộc rất khó
nhận biết các doanh nghiệp phương Tây thường đã phải chịu bao nhiêu tác hại.
Microsoft và các công ty phần mềm khác đã phàn nàn trong nhiều năm về tỷ lệ vi
phạm bản quyền phần mềm ở mức cao của Trung Quốc; nhưng các công ty phần mềm
của Mỹ vẫn chiếm ưu thế trong các thị trường toàn cầu và không có đối thủ cạnh
tranh nào xuất hiện ở Trung Quốc. Trong nhiều thập kỷ, các công ty sản phẩm
tiêu dùng của phương Tây đã phải chiến đấu một cuộc chiến cầm chắc thất bại
chống lại các bản nhái thương hiệu của Trung Quốc, nhưng hầu hết các công ty
này đều được hưởng lợi và phát triển kinh doanh ở Trung Quốc. Phần lớn các công
ty đều tính đến môi trường kiểu “miền Tây hoang dã” về quyền sở hữu trí tuệ của
Trung Quốc trong kế hoạch kinh doanh, và đã tìm ra cách phát triển thịnh vượng.
Một mánh lới khác đó là Trung Quốc đã
cố gắng dàn xếp việc đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ dưới lốt “chuyển giao công
nghệ”, ví dụ như khi chính sách “Đổi mới sáng tạo” buộc một số công ty nước
ngoài phải giao các công nghệ then chốt để đổi lấy quyền thâm nhập thị trường
Trung Quốc. Mặc dù người ta có thể không chấp nhận các chiến thuật như vậy,
nhưng cách nhìn nhận chính xác hơn chính là xem chúng như các cuộc đàm phán
kinh doanh hơn là những vở kịch luân lý. Trung Quốc có thị trường rộng lớn
nhưng các công ty của nó lại lạc hậu về công nghệ. Các công ty nước ngoài thì
có công nghệ và cho rằng họ có thể kiếm được lợi nhuận khổng lồ bằng cách bán
các công nghệ đó ở Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đang sử dụng quyền thâm
nhập thị trường như một món hàng mặc cả để chiếm được một tỷ lệ lợi nhuận lớn
hơn kiếm được từ phát triển công nghệ cho các công ty Trung Quốc. Tuy nhiên,
cho đến nay, các công ty nước ngoài đã thành công trong việc chống lại những nỗ
lực này."
No comments:
Post a Comment