Gần đây, một số người tuyên truyền rằng học bổng Fulbright là nguồn đào tạo gián điệp, chuẩn bị cho cách mạng mầu. Những người này thường không biết gì về hệ thống giáo dục Mỹ, cũng không biết gì về chính trị đối lập, nhưng mang sẵn định kiến trong đầu. Có nhiều người thậm chí không biết gì về khoa học xã hội và nhân văn. Cứ nghe chuyện thanh niên VN đến Mỹ học các ngành này là họ thấy khó chịu. Thế nên, tôi muốn giải thích một chút về những chuyện này.
A. SƠ LƯỢC
VỀ HỌC BỔNG FULBRIGHT
Quỹ học bổng Fulbright ra đời từ năm
1946. Mỗi năm quỹ này cấp khoảng 8000 học bổng (bao gồm khoảng 1600 học bổng
cho sinh viên Mỹ, 1200 cho học giả Mỹ, 4000 sinh viên nước ngoài, 900 học giả,
và vài trăm giảng viên và chuyên gia[1]. Tính đến nay, đã có khoảng 632,000 người
Mỹ và các nước trên thế giới đã nhận học bổng này (trong đó, 410,800 người đến
từ nước khác trên thế giới). Học bổng Fulbright là một trong những học bổng nổi
tiếng nhất thế giới. 43 fulbrighter đã trở thành tổng thống/thủ tướng các quốc
gia/vùng lãnh thổ; 62 fulbrighter từ 15 quốc gia được giải Nobel; 80
fulbrighter được giải MacArthur (giải dành cho thiên tài), và 90 fulbrighter được
giải Pulitzer[2].
Với bảng thành tích như vậy, việc quy chụp
học bổng Fulbright có mục đích chuẩn bị lực lượng cho cách mạng mầu rất khôi
hài. Một trong những tiêu chí quan trọng để được học bổng Fulbright là có tố chất
lãnh đạo, dẫn đầu về một lĩnh vực nào đó, có ý tưởng độc đáo phục vụ cộng đồng,
hoặc có tiềm năng tạo ảnh hưởng tương đối khá trong xã hội. Chính vì vậy những
người là lãnh đạo trung, cao cấp trong các cơ quan nhà nước, có triển vọng
thăng tiến dễ được học bổng này. Các nhà khoa học và những trí thức đã có một số
thành tựu cũng dễ được học bổng. Thế nên không có gì khó hiểu, nhiều cựu
Fulbrighter đã vươn tới những giải thưởng lớn và những vị trí lãnh đạo quan trọng
của quốc gia. Nói rằng nước Mỹ thực dụng, cố gắng gây ảnh hưởng lên các nước
khác trên mọi lĩnh vực thông qua Fulbright thì đúng. Nhưng nói rằng có thể kết
hợp những thành tích rất khó ấy với mục đích đào tạo gián điệp thì…tôi không biết
cần phải nói gì nữa.
Nhiều người rất sợ chữ “gây ảnh hưởng”
lên các nước khác, đặc biệt là những người không có kiến thức về khoa học xã hội
& nhân văn. Thật ra nước nào cũng cố gắng “gây ảnh hưởng” lên nước khác. Ảnh
hưởng đó bao gồm tạo ra hình ảnh thân thiện, khiến cho người dân nước khác hiểu
và quý mến nước mình. Đào tạo cán bộ, để có cơ hội mở rộng quan hệ trên mọi
lĩnh vực: kinh tế, xã hội, khoa học, quân sự v.v.
Trước 1990, Mỹ chưa có chủ trương thu
hút người nước ngoài đến Mỹ học tập, làm việc. Thậm chí họ còn duy trì các
chính sách kỳ thị sắc tộc, giới tính. Phụ nữ và người da màu khó kiếm việc tốt ở
Mỹ. Học bổng Fulbright là một trong những nguồn quan trọng nhất để du học Mỹ. Từ
sau Thế chiến II đến nay, mới có tổng cộng 410,800 người nước ngoài du học,
nghiên cứu, giảng dạy ở Mỹ bằng học bổng này. Nhưng từ 1990 đến nay, chính phủ
Mỹ thay đổi quan điểm. Họ tăng cường thu hút du học và nhân tài đến Mỹ làm việc.
Việc mở cửa cũng kéo theo nhiều người đến Mỹ công tác, làm nhân viên của các
chi nhánh của các công ty đa quốc gia, các tổ chức quốc tế. Các nước cũng nô nức
gửi người đến Mỹ học tập, công tác. Thế nên đã có vài chục người đến Mỹ học tập,
công tác. Năm học
2022-2023, số sinh viên quốc tế học tập ở Mỹ là 858,395 người (bậc đại học là 347,602, sau đại học là 467,027, và du học không lấy bằng
43,766)[3]. Năm học 2022-2023, tổng số du học sinh VN ở Mỹ là 21,900 (trong đó số sinh viên đại học
là 14,295, sau đại học là 3,768 [4]). Tính từ 1975 đến nay, đã có tổng cộng
vài trăm nghìn người Việt du học Mỹ từ bậc đại học trở lên. Trong khi đó, tổng
số người Việt là Fulbrighter từ sau 1975 đến nay mới chỉ khoảng hơn 1000 người.
Có vài chục loại học bổng để người Việt du học, nghiên cứu, giảng dạy ở Mỹ.
Fulbright chỉ là một trong số đó. Thật ra, hiện nay đại đa người Việt du học Mỹ
nhờ các học bổng của của trường, các dạng công việc kiểu như trợ lý giảng dạy,
trợ lý nghiên cứu có lương. Số người Việt nhận học bổng Fulbright hàng năm khá
nhỏ, tổng cộng mỗi năm chỉ khoảng 40-50 người. Không có lý do gì chính đáng để
lo ngại các Fulbrighter hơn những người khác đã từng học tập, công tác ở Mỹ.
Theo đại sứ Vũ Quang Minh: “Thượng nghị sỹ William Fulbright là người
đã phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, ủng hộ chủ nghĩa đa
phương trong quan hệ quốc tế, ủng hộ LHQ và thúc đẩy thành lập lực lượng gìn giữ
hoà bình. Ông cũng là người phản đối chính sách chống cộng cực đoan của một số
lực lượng chính trị Mỹ, phản đối chính sách truy lùng và đàn áp những người bị
coi là thân cộng sản ở Mỹ. Ông đã sáng lập chương trình học bổng trao đổi học
thuật mang tên ông”.
B. NHỮNG
VÍ DỤ ĐỂ BÔI NHỌ CÁC FULBRIGHTER
Gần đây nhiều người trên Internet phổ biến
một bài viết về ba ví dụ ở Chile, Bangladesh, và Liên Xô dưới đây. Tác giả dùng
ba ví dụ này để minh hoạ rằng các fulbrighter là lực lượng chuẩn bị cho cách mạng
mầu. Tuy nhiên, cả ba đều không thuyết phục.
1.
DỰ ÁN CHILE: Có 26 sinh viên Chile đã
được đào tạo tại đại học Chicago từ năm 1956 đến năm 1964 để trở thành các
chuyên gia kinh tế. Tác giả bài viết cho rằng 26 sinh viên này chính là lực
lượng này là nòng cốt trong cuộc đảo chính năm 1973, lật đổ Tổng thống dân cử
Salvador Allende để dựng lên chế độ độc tài Augusto Pinochet???
Lập luận như vậy là sai. Chile vốn là
một quốc gia dân chủ, đa đảng lâu đời. Allende được người dân Chile bầu lên một
cách dân chủ. Tuy nhiên, ông này ủng hộ chủ nghĩa Marx, và trở thành tổng thống
ở thời kỳ Mỹ coi chủ nghĩa cộng sản là hiểm hoạ. Đó là lý do Mỹ quyết tâm lật
đổ Allende năm 1973. Quân đội Chile chính là nhóm lật đổ. Không có chuyện 26
nhà kinh tế “trói gà không chặt” dính dáng đến vụ đảo chính này.
Mỹ là quốc gia mạnh nhất thế giới về
kinh tế học, với 70% số giải Nobel kinh tế. Ngành kinh tế không có Hội nghị
Toàn thể cứ mỗi 4 năm kiểu như ngành toán, bởi vì hội nghị thường niên của
ngành kinh tế Mỹ chính là hội nghị quan trọng nhất của ngành, quy tụ các nhà
kinh tế trên khắp thế giới hàng năm. Chile lại rất gần Mỹ. Các nhà kinh tế
Chile không học ở Mỹ thì còn phải học ở đâu nữa? Cả thế giới đã chuyển sang
kinh tế thị trường, kể cả VN, cho dù VN không hề có đảo chính. Hiện nay đa số
các chương trình đào tạo kinh tế học ở các trường đại học VN đều sử dụng các
tài liệu của Mỹ. (Không phải là tài liệu của Trung Quốc hay Nga. Bởi lẽ, về
kinh tế, hiện nay sinh viên Trung Quốc, Nga, và cả thế giới cũng học tài liệu
của Mỹ). Chỉ các môn như triết học, VN hiện nay dùng tài liệu của Trung Quốc và
Nga. Thế nên, 26 nhà kinh tế Chile áp dụng lý thuyết của Mỹ sau khi Pinochet
lên cầm quyền có gì đáng ngạc nhiên?
Quan trọng là chỉ nên tính THỜI ĐIỂM
ĐẢO CHÍNH. Những ai đã trực tiếp đóng góp quan trọng vào đảo chính? Còn sau khi
có đảo chính, ai thăng tiến, áp dụng lý thuyết gì không phải là điều quan trọng
nữa. 26 nhà kinh tế có biết cầm súng đâu mà lại gán cho họ tham gia đảo chính?
(Chưa nói đến việc ai trong số này được học bổng Fulbright???).
2.
MUHAMMAD
YUNUS Ở BANGLADESH: Thời trẻ, Yunus từng làm chuyên gia trong Uỷ Ban Kế
hoạch của Chính phủ Bangladesh. Tuy nhiên, do thấy công việc đó nhàm chán, ông
bỏ việc và trở thành giáo sư đại học và dành cả cuộc đời để phát triển hệ thống
ngân hàng tín dụng vi mô. Đấy là mô hình ngân hàng hoàn toàn mới trên thế giới.
Cho người nghèo vay không cần thế chấp. Thế nên việc đảm bảo cho hệ thống ngân
hàng đó tồn tại và phát triển được vô cùng vất vả. Vậy mà ông ấy làm được và
đem lại lợi ích cho hàng chục triệu người nghèo Bangladesh. VN cũng phải học tập
mô hình này của ông. Giới nghiên cứu kinh tế khắp thế giới đều biết những cống
hiến của ông ấy từ rất lâu rồi. Việc ông ấy được giải Nobel Hoà Bình, Huân
chương Tự do của Mỹ là hoàn toàn hợp lý. Mẹ Teresa cũng được hai giải thưởng
này.
Nếu
Yunus ham thích chính trị thì ông sẽ phải tiếp tục làm việc trong bộ máy nhà
nước để tìm cách leo cao từ thời trẻ. Sau khi Bangladesh đảo chính, tổng thống
Bangladesh cử ông này làm thủ tướng tạm quyền. Chuyện này dễ hiểu, bởi Yunus là
người Bangladesh duy nhất được giải Nobel. Mô hình tín dụng vi mô của ông đã
giúp cho hàng chục triệu người nghèo cho nên uy tín của ông ở Bangladesh rất
lớn. Mỹ nào cử một ông già 84 tuổi lên cầm quyền, nhỡ được vài tháng ông ý lăn
ra ốm liệt giường?
Điều
quan trọng là chỉ nên tính đến THỜI ĐIỂM ĐẢO CHÍNH. Một cá nhân hoặc tổ chức
đóng góp tích cực trực tiếp như thế nào vào việc đảo chính? Còn sau khi đảo
chính, cái gì xảy ra không còn quan trọng nữa. Bangladesh có hàng triệu người
thích Mỹ, không người này lên thì sẽ có người khác.
Một
số người không có kiến thức về chính trị đối lập còn gọi Yunus là “thủ lĩnh
sinh viên” (?). Đám thanh niên trẻ làm đảo chính trực tiếp cộng tác với nước
ngoài, bởi vì nước ngoài cung cấp cho họ tiền bạc, danh tiếng, cơ hội tị nạn
chính trị nếu họ bị truy tố. Họ làm đảo chính vì họ ham trở thành anh hùng, là
“những người lãnh đạo cách mạng”. Ngược lại, đám “thầy dùi” ở hải ngoại chiều
đám bạo loạn trong nước như “chiều vong”. Người già thì đóng góp được gì đảo
chính? Không có chuyện già, trẻ phối hợp nhau làm đảo chính, bởi vì đám trẻ vốn
coi thường đám già. Đám “thực hành” vốn không ưa đám “lý thuyết”.
Thời
cách mạng vô sản ngày xưa hoàn toàn khác. Ngày xưa các nhà tư tưởng tranh luận
với nhau rất nhiều, rồi mới hoàn thiện các lý thuyết. Sau đó, câc nhà hoạt động
đem các lý thuyết đó ứng dụng để làm cách mạng. Các nhà hoạt động làm cách mạng
thành công xong vẫn treo ảnh, ca ngợi các nhà tư tưởng như Marx, Elgel. Lý
tưởng đánh đuổi ngoại xâm, giành độc cho dân tộc rất cao đẹp, mạnh mẽ cho nên
được đông đảo người dân ủng hộ. Nhưng ngày nay, khoa học xã hội đã phát triển
khủng khiếp. Các chuyên gia học hỏi đến già, thường xuyên trao đổi trong cộng
đồng chuyên gia, vẫn không dám chắc chắn về hiểu biết của mình. Đám trẻ nổi
loạn ngày nay bị kích động bởi lý tưởng dân chủ, nhân quyền hời hợt của phương
tây. Chúng hoang tưởng là chúng có khả năng hiểu được các vấn đề chính trị quan
trọng của quốc gia. Tất cả đám trẻ ấy
đều nông cạn, sùng bái phương tây mù quáng, coi thường các chuyên gia trong
nước theo chủ nghĩa dân tộc. Đấy là đám bất nhân, bất nghĩa, dốt nát cho nên sẵn
sàng câu kết với ngoại bang, chửi bới tiền nhân, đạp lên thành quả của cha ông để
chứng tỏ bản thân. Họ làm cách mạng là để công chúng phải ca ngợi họ. Không có
chuyện đám trẻ tôn vinh một ông già làm thủ lĩnh. Không có chuyện họ nghe lời
một ông già, người không có khả năng đem lại cái gì cho họ. Mâu thuẫn trong nội
bộ giới chính trị đối lập ngày nay, đặc biệt là mâu thuẫn trẻ-già và mâu thuẫn
giữa “giới lý thuyết”-“giới hoạt động” là không thể dung hoà.
Có
một số người nói rằng “Mỹ nuôi Yunus” để đợi ngày đảo chính (?) Ở mọi quốc gia,
con đường thăng tiến về chính trị rất bấp bênh. Xưa nay, việc “nuôi gián điệp”
luôn đòi hỏi gián điệp đó có những hành vi phá hoại hoặc cung cấp thông tin mật
cho nước ngoài. Không có chuyện một gián điệp nào đó mấy chục năm không làm gì,
nằm “há miệng chờ sung” để trở thành lãnh đạo quốc gia. Thậm chí Yunus đã từ bỏ
phấn đấu theo con đường chính trị từ thời trẻ, để làm giáo sư, làm ngân hàng.
Nói
vắn tắt, đến giờ phút này không bằng chứng gì về việc Yunus làm tay sai cho Mỹ.
Nói rằng ông ta là nhân tố của cách mạng mầu ở Bangladesh là không có cơ sở. Banladesh
vốn là nước dân chủ đa đảng, đại nghị. Nếu việc chuyển giao quyền lực từ đảng
nọ sang đảng kia êm ả thì không có gì đáng bàn. Điều duy nhất khiến chúng ta
quan tâm là họ chuyển giao quyền lực bằng đảo chính. Thế nên, quan tâm đến bạo
loạn, cách mạng màu thì chỉ nên quan tâm đến những người đóng góp trực tiếp và
đáng kể để tạo ra các vụ bạo loạn, đảo chính đó thôi.
3.
YAKOVLEV
Ở LIÊN XÔ:
Nhiều người lan truyền truyền thuyết rằng
Yakovlev là gián điệp của Mỹ và đóng góp chính khiến Liên Xô sụp đổ. Yakovlev học
về Lịch sử (chứ không phải kinh tế) ở Mỹ một năm, sau đó làm đại sứ ở Canada 10
năm.
+ Vai trò phá hoại lớn nhất, kinh khủng
nhất là Gorbachov. Ông này đã bổ nhiệm, cài cắm hàng trăm người ủng hộ đường lối
Cải tổ, Công khai hoá của ông ta vào các vị trí lãnh đạo cao cấp. (Trích cuốn Hồ
sơ quyền lực Gorbachev: “Tổng cộng, Gorbachev đã thay 14 trong 23 lãnh đạo các
ban trong Ban Bí thư. Không một nhà lãnh đạo nào trước đây thay đổi nhiều nhân
sự trong bộ máy Nhà nước và Đảng như vậy trong năm cầm quyền đầu tiên. Ở Liên
bang Nga, 24 bí thư thứ nhất tỉnh ủy và khu ủy đã bị thay đổi, cũng như 23
trong số 78 người trong các nước cộng hòa không phải Nga (thuộc các nước cộng
hòa khác trong Liên Xô). Trong số 14 bí thư thứ nhất của các đảng cộng sản ở
các nước cộng hòa, có bốn người mới. Trong Chính phủ, 39 trong số 101 bộ trưởng
Xô viết bị sa thải. Trên toàn quốc khoảng một phần năm tổng số quan chức ở các
cơ quan Đảng quan trọng nhất bị mất chức và số lượng các quan chức chính phủ bị
sa thải hoặc bị thuyên chuyển công tác phải lên đến hàng nghìn”.)
+ Gorbachev đưa ra chế độ bầu cử tổng thống, loại bỏ
sự can thiệp của Đảng vào quá trình quản lý kinh tế, triệu tập một Đại hội Đại
biểu Nhân dân và tiến hành bỏ phiếu cạnh tranh.
+ Tại Liên Hợp Quốc, Gorbachev tuyên bố
Liên Xô cắt giảm lực lượng vũ trang xuống 500 nghìn quân trong vòng 2 năm mà
không đòi phải có động thái đáp lại của Mỹ hay đồng minh của Mỹ.
+
Ngày 5/2/1990, Trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, Gorbachev đề
nghị bỏ hẳn vai trò lãnh đạo của Đảng (Điều 6 của Hiến pháp Liên Bang Xô viết),
chấp nhận hệ thống đa đảng và thông qua “chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhân văn”.
Những điều này được chấp nhận vào ngày 7/2, sau một cuộc tranh cãi kịch liệt.
Nói vắn tắt, sự sụp đổ của Liên Xô có
công sức hàng đầu và kinh khủng nhất của Gorbachov cùng với hàng trăm quan chức
cao cấp. Những người này không có liên quan gì đến Mỹ hay Fulbright. Nhân vật đặc
biệt nguy hiểm thứ hai sau Gorbachov là ngoại trưởng Shevardnadze. Shevardnadze
là người bị giới quân sự thông báo sẽ treo cổ một ngày nào đó “vì tội quy phục
Mỹ”. Yakovlev chỉ là một trong số đó. Việc phóng đại vai trò của Yakovlev trong
việc Liên Xô tan rã nghĩa là từ chối thừa nhận nền chính trị Liên Xô khi ấy có
quá nhiều “lỗi hệ thống” nghiêm trọng, và vai trò phá hoại của hàng trăm người
khác, (những người không liên quan gì đến Fulbright).
C. CÓ
NÊN LO NGẠI CÁC FULBRIGHTER?
Trước tiên, tôi muốn nói về quy
trình tuyển học và du học bằng học bổng Fulbright. Học bổng Fulbright bậc thạc
sĩ là một trong những học bổng cạnh tranh nhất ở VN. Sau khi được chính thức lựa
chọn, những người được học bổng Fulbright sẽ phải tự chọn chương trình học ở Mỹ,
và tự nộp hồ sơ. Sau khi được một số chương trình chấp nhận cho họ vào học, các
fulbrighter mới làm việc lại với Quỹ học bổng Fulbright để chốt điểm đến cuối
cùng. Những người nhận học bổng Học giả Fulbright thì có thể liên hệ với các
trường ở Mỹ trước hoặc sau khi có học bổng. Cần nhấn mạnh là các chương trình
nhận các Fulbrighter đến học tập, nghiên cứu, giảng dạy đều là các chương trình
xếp hạng cao hoặc khá ở Mỹ về mặt học thuật. Giảng viên của các chương trình
này là những người có thành tích cao về nghiên cứu học thuật. (Đương nhiên, các
chương trình đó hoàn toàn khác với các chương trình đào tạo ngắn hạn về chính
trị đối lập, với giảng viên là các nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền).
1. Không
có lý do để lo ngại các Fulbrighter hơn những người khác:
+ Các
trường đại học nơi Fulbrighter học tập, công tác không phải là các trung tâm của
CIA: Các giảng viên được tuyển chọn giảng
dạy ở các nơi đó đều có các thành tích cao về học thuật. Đương nhiên có một số
rất rất nhỏ những người làm việc cho CIA, hoặc có ác cảm với các quốc gia như
VN. Họ cũng có thể tuyên truyền một số điều lệch lạc theo quan điểm của họ. Tuy
nhiên, về nguyên tắc họ vẫn phải giảng dạy đầy đủ lý thuyết và thực tiễn chuyên
môn, dạy học viên tư duy đa chiều, tự nghiên cứu tài liệu. Chính vì được giảng
dạy đầy đủ lý thuyết, tư duy đa chiều, tự nghiên cứu tài liệu cho nên học viên
không dễ bị kích động. Ngoài ra mỗi học viên phải học vài chục môn học với nhiều
giảng viên khác nhau.
+ Nếu
có giảng viên nào đó giảng dạy những nội dung lệch lạch thì đó chỉ là muối bỏ bể
so với hàng triệu thông tin lề trái đầy rẫy trên Internet. Trên thực tế, những
giảng viên như vậy chỉ là thiểu số rất nhỏ.
+ Những
giảng viên tuyên truyền nhiều quan điểm chính trị cực đoan cũng dễ bị các nhóm
sinh viên, phụ huynh, và các nhóm chính trị (ví dụ các nhóm sinh viên cánh tả)
tẩy chay, gây áp lực đuổi việc.
2. Nếu
lo ngại thì phải cảnh giác với tất cả những người du học, công tác ở Mỹ:
+ Thời
kỳ Yacovlev du học Mỹ, Liên Xô đóng cửa với phương tây, không chủ trương đưa
người sang phương tây học tập. Phương tây cũng chưa có chủ trương thu hút nhân
tài từ các nước kém phát triển và từ các nước đối thủ. Học bổng Fulbright là
nguồn hiếm hoi và quan trọng để du học ở Mỹ. Thế nên trường hợp Yacovlev bị chú
ý vì khá hiếm người Liên Xô đi du học Mỹ. (Suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, chỉ
có khoảng vài trăm đến vài nghìn người). Tuy nhiên ngày nay, các nước đua nhau
gửi quan chức, cán bộ, sinh viên đến Mỹ học. Tập Cận Bình cũng gửi con gái học ở
Mỹ khi ông đã là phó chủ tịch nước. Hun Sen cũng cho tất cả các con học ở Mỹ.
Tính từ 1991 đến nay, Trung Quốc và Nga đã có hàng triệu người học tập, công
tác ở Mỹ. VN cũng có vài trăm nghìn người. Trong khi đó số Fulbrighter tính từ
1975 đến nay tổng cộng mới khoảng 1000 người. Từ 1990s đến nay, đại đa số người
đến Mỹ du học bậc thạc sĩ, tiến sĩ dưới dạng học bổng của trường đại học hoặc
làm trợ giảng, trợ lý nghiên cứu có lương (không liên quan gì đến Fulbright). Ngoài
ra có vài chục loại học bổng khác với Fulbright.
3. Những
người bất mãn chế độ là ai?
+
Nguy cơ một người học tập, công tác ở Mỹ trở thành bất mãn, thậm chí cộng tác với
các tổ chức chống chế độ là có thật. Nhưng đó là nguy cơ đối với tất cả những
người du học, công tác ở Mỹ, chứ không riêng gì Fulbrighter. Động lực chủ yếu
biến họ trở thành bất mãn là các tài liệu, video clip đầy rẫy trên Internet,
các liên hệ với giới bất mãn chế độ và giới chính trị gia ở Mỹ.
+
Nguy cơ không chỉ ở Mỹ mà đến từ tất cả các nước khác: Chỉ tính 15 năm trở lại
đây, có đến 5, 6 đại sứ, lãnh đạo ngoại giao, thậm chí UVTW, về hưu bỗng dưng diễn
biến hoà bình. Có cán bộ phụ trách lãnh sự nghỉ hưu chạy ra nước ngoài tị nạn. Tất
cả đều không liên quan gì đến Fulbright, thậm chí không ai học ở Mỹ. Tập hợp
Thanh niên Dân chủ ra đời ở Pháp. 72 người đòi thay đổi hiến pháp hay 127 trí
thức viết thư ngỏ đòi cải tổ chính trị, chả liên quan gì đến Fulbright, thậm
chí không liên quan gì đến Mỹ. Từ 1975 đến nay đã có hàng nghìn người quốc tịch
VN công khai chống phá chế độ, nhưng tuyệt đại đa số không liên quan gì đến
Fulbright. Tuyệt đại đa số được đào tạo ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam, Trung Quốc.
+
Không có bằng chứng nào cho thấy những người học tập ở Mỹ, đặc biệt là
fulbrighter, dễ diễn biến hoà bình hơn những người không học. Thực tế cho thấy,
đội chống phá VN điên cuồng nhất là những người không hề được đào tạo chính quy
ở phương tây. Thiếu hiểu biết về phương tây khiến họ có nhiều hoang tưởng về tự
do, về nhân quyền ở các xứ đó. (Không tính đến các khoá đào tạo chính trị đối lập
ngắn hạn, chủ yếu được tổ chức ở các nước gần VN).
+ Gần
đây, có một số quan chức VN là fulbrighter bị kỷ luật. Nhưng cũng giống như
hàng nghìn quan chức khác, lý do bị kỷ luật là nghi ngờ dính đến tham nhũng hoặc
các vấn đề khác, chứ không liên quan đến diễn biến hoà bình.
4.
Làm thế nào để biến một người bình thường
trở thành chống phá chế độ:
Từ 1990 đến nay, sau khi bình thường
hoá quan hệ với Mỹ, đã có vài trăm nghìn người Việt đến Mỹ học tập, công tác.
Giới chính trị hải ngoại không có sức để quan tâm đến tất cả.
+ Đối với những bình thường đi Mỹ
du học hoặc công tác (nghĩa là những người không có tiềm năng trở thành lãnh đạo
trung/cao cấp ở nhà nước, hoặc có ảnh hưởng tương đối lớn trong xã hội VN): chỉ
những người thường xuyên tỏ ra bất mãn chế độ hoặc có hành động phản kháng hơn
mức bình thường thì mới được giới chính trị hải ngoại “chăm sóc đặc biệt” để
lôi kéo họ trở thành đối lập. Ví dụ: những người thường xuyên viết bài chỉ
trích các cá nhân, tổ chức; những người nhiều lần dám chỉ trích đường lối của đảng
cộng sản; những người giữ vai trò admin, moderator của các website chính trị đối
lập; hoặc nhiều lần tham gia các hoạt động của đội cờ vàng (chẳng hạn như đi biểu
tình). Ở đây nhấn mạnh chữ “thường xuyên”, bởi những người năm thì mười hoạ mới
thể hiện sự bất mãn thì cũng không được ai quan tâm.
+ Đối với những người (có tiềm
năng) là lãnh đạo trung, cao cấp ở khu vực công, hoặc có (tiềm năng) ảnh hưởng
tương đối lớn trong xã hội đi du học hoặc công tác: Số người này không nhiều
cho nên được giới chính trị hải ngoại tiếp cận, thăm dò quan điểm nhiều hơn. Một
số rất nhỏ những người người kém hiểu biết chính trị, có cá tính ngông cuồng, thì
cũng dễ bị kích động trở thành bất mãn, thậm chí làm tay sai, gián điệp cho ngoại
bang.
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh là
không chỉ đi Mỹ mới như vậy mà đi các nước phương tây khác cũng vậy. Ai am hiểu
về chính trị đối lập đều biết các tổ chức đối lập chống phá VN tập trung nhiều
nhất là ở các nước láng giếng (Thái Lan, Đài Loan, Indonesia, Malaysia,
Philippines, Úc), các nước SNG cũ và châu Âu (Pháp, Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc).
D.
TIÊN TRÁCH KỶ, HẬU TRÁCH NHÂN
+ Gorbachov giữ vai trò hàng đầu, quan
trọng nhất trong sự sụp đổ của Liên Xô. Chính ông ta đã cài cắm hàng trăm quan
chức, lãnh đạo cao cấp đồng tình với các quan điểm dân chủ hoá, công khai hoá của
ông ta từ trung ương đến địa phương. Không có Gorbachov thì Yakovlev cũng không
làm gì được, bởi ông ta đã được KGB lưu ý và ngăn chặn làm UVTW trong các đời tổng
bí thư trước Gorbachov. Yakovlev chỉ là một trong hàng trăm lãnh đạo cao cấp
góp phần khiến Liên Xô sụp đổ.
+ Một trong những nguyên nhân quan trọng
nhất khiến Liên Xô sụp đổ là do không tiến hành kinh tế thị trường và mở cửa với
thế giới sớm hơn. Bởi nếu chuyển đổi kinh tế thị trường sớm hơn khoảng 1 thập kỷ
thì các quan chức cao cấp, và ngay cả Gorbachov sẽ thấy được những thành tựu đổi
mới sớm, và không cho rằng đổi mới kinh tế phải đi liền với đổi mới chính trị.
+ Từ sau thế chiến II đến nay, mới có
khoảng 410,800 fulbrighter đến từ các quốc gia ngoài Mỹ, nhưng có đến vài chục
triệu đã từng học tập, công tác ở Mỹ. Không có lý do gì để lo ngại các fulbrighter
hơn những người khác đã học tập và công tác ở Mỹ, và các quốc gia phương tây
khác. Không có bằng chứng các nhà kinh tế thuộc Dự án Chile hoặc Muhammad Yunus
trực tiếp đóng góp phần quan trọng vào đảo chính ở Chile và Bangladesh.
+ Việc học tập ở Mỹ và phương tây đem đến
rủi ro là một số người sẽ trở thành tay sai, gián điệp cho ngoại bang. Bù lại,
những kiến thức khoa học và văn minh ở các quốc gia đó rất hữu ích để phát triển
VN. Tất cả các quốc gia, kể các nước mà Mỹ coi là kẻ thù như Trung Quốc, Nga đều
gửi vô số thanh niên, cán bộ đến Mỹ học tập. Chẳng có lý do gì VN đi ngược lại
xu thế ấy. Trên thực tế, những người me tây, cuồng tín nhất là những người
không học tập ở phương tây. Những người đã gây ra những cơn địa chấn ở Liên Xô,
Đông Âu, Michael Gorbachov, Boris Yeltsin, Lech Walesa, Vaclav Havel, hay địa
chấn ở Trung Quốc như Hồ Diệu Bang, Triệu Tư Dương đều không học tập ở phương
tây và càng không liên quan đến học bổng Fulbright.
[1]https://en.wikipedia.org/wiki/Fulbright_Program
[2]https://eca.state.gov/fulbright/fulbright-alumni/notable-fulbrighters
[3] https://www.statista.com/statistics/237689/international-students-in-the-us-by-academic-level/
[4]https://vnexpress.net/viet-nam-dung-top-5-ve-so-du-hoc-sinh-o-my-4676390.html
[5]https://vietnamnet.vn/diep-vien-co-anh-huong-khien-lien-xo-tan-ra-651645.html
No comments:
Post a Comment