Monday, September 1, 2025

BÀN VỀ LỊCH SỬ PHẢI DỰA TRÊN BỐI CẢNH VÀ THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ

Gần đây tôi mới đọc về cuộc tranh luận của các cựu chiến binh và một số nhà sử học về việc có nên dùng từ “nguỵ” trong các tài liệu lịch sử hay không. Thật ra, trong giới học thuật khoa học xã hội có câu “Văn sử triết bất phân”. Đánh giá Phải-trái-đúng-sai về một nhân vật, một sự kiện hoặc giai đoạn lịch sử thì cần phải giỏi triết học chứ không chỉ cần giỏi lịch sử. Nhiều giáo sư sử học chỉ giỏi tìm kiếm các sự kiện lịch sử nhưng không giỏi triết học cho nên đã có nhiều quan điểm sai lầm. Nhiều người trong xã hội do dốt kém hoặc me tây nên đòi bỏ cách gọi địch-ta trong các tài liệu lịch sử. Một số lãnh đạo cao cấp cũng lơ mơ về chuyện này.

Trong vụ này, các cựu chiến binh đã nói đúng. Tuy nhiên, các đại diện của giới cựu chiến binh thường là các đảng viên. Đôi khi cách lập luận của họ chưa đủ thuyết phục bởi họ không hiểu tư duy của những người ngoài đảng. Trong khi đó, chỉ tính những người từ 15 tuổi trở lên, VN có tới 92, 93% người ngoài đảng.
A. THÔNG LỆ QUỐC TẾ VÀ NGUYÊN TẮC CÓ ĐI CÓ LẠI
Tôi lấy ví dụ cuốn sách “Tường trình của một quân nhân” của tướng Westmoreland, tham mưu trưởng lục quân Mỹ giai đoạn 1968-1972. Trong cuốn này, ông ta chủ yếu phân tích việc Mỹ tham chiến ở VN thời kỳ 1955-1973. Westmoreland bàn về các chiến lược, chiến thuật tiêu diệt bộ đội VN, phá huỷ các làng mạc, thành phố, ép buộc người Việt phải từ bỏ ý định thống nhất đất nước. Ông ta gọi bộ đội, người dân Việt đánh đuổi quân Mỹ là kẻ thù, là địch, gọi VNCH là đồng minh, đối tác. Một ví dụ khác là các hồi ký của vợ chồng Clinton. Mặc dù vợ chồng Clinton đều là những nhân vật phản chiến, đã đóng góp tích cực để bình thường hoá quan hệ với VN. Tuy nhiên, trong hồi ký, họ cũng gọi bộ đội VN là quân địch và ca ngợi những người lính Mỹ hăng hái tiêu diệt bộ đội VN. Những người như John McCain được nước Mỹ phong làm anh hùng cũng vì chiến đấu chống lại bộ đội VN, chống lại nguyện ước thống nhất đất nước của người Việt.
Chính quyền Vichy của Pháp đầu hàng phát xít Đức, tiếp tay cho quân phát xít chống lại những người kháng chiến. Họ bị nhân dân và đa số giới sử gia Pháp lên án. Mặc dù ban đầu chính quyền Vichy có quyền lực lớn, nhưng sau khi phát xít Đức chiếm đóng hoàn toàn nước Pháp, quyền lực thực tế rơi vào tay người Đức, cho nên thực chất vẫn là một chính quyền bù nhìn.
Ngày nay, New York Times, CNN, Fox News...khi tường thuật các sự kiện trong chiến tranh Việt Nam vẫn gọi bộ đội VN và những người tham gia kháng chiến chống Mỹ là quân thù, chứ không gọi họ là "những người bạn" hay "các đồng chí Việt Nam" đâu. 😃
Theo nguyên tắc có đi có lại, tài liệu lịch sử VN cũng cần gọi quân Pháp, Mỹ, Nhật, Trung Quốc xâm lược, can thiệp quân sự vào VN là quân thù, là kẻ địch. Những kẻ tiếp tay cho các quân đội ngoại bang xâm lược, can thiệp quân sự vào nước mình thì gọi là nguỵ quân, nguỵ quyền. Đấy là cách gọi phù hợp với thông lệ quốc tế.
Sau khi chiến tranh kết thúc, hai quốc gia thù địch có thể trở thành bạn bè. Người Việt hai phe có thể hoà giải với nhau. Tuy nhiên, hoà giải không có nghĩa là xí xoá lịch sử. Các tài liệu lịch sử chính thống, các cuốn hồi ký về những sự kiện, nhân vật lịch sử sử dụng các thuật ngữ “quân địch”, “quân thù”, “nguỵ quân, nguỵ quyền” là bình thường và cần thiết. Văn chương, nghệ thuật, báo chí tường thuật lại các sự kiện lịch sử cũng vậy. Đấy là cách bàn luận lịch sử theo thông lệ quốc tế. Tất cả các quốc gia đều như vậy.
Việc ghi chép lịch sử như vậy nhằm giáo dục thế hệ tương lai phải luôn luôn cảnh gíác. “Gác lại quá khứ nhưng không có nghĩa là lãng quên quá khứ”. Điều đó còn góp phần ngăn các thế hệ tương lai không mắc phải những sai lầm của tiền bối: làm tay sai cho ngoại bang chống phá quốc gia.
Nhiều người thuộc thế hệ F0, F1 dính dáng đến các chế độ cũ và những người yếu kém về tư duy lịch sử có thể bất mãn. Tuy nhiên, theo thời gian, các thế hệ F0, F1 sẽ qua đi. Thế hệ F2, F3…sẽ dễ dàng chấp nhận thông lệ ghi chép lịch sử của thế giới. Thật ra, không có quốc gia nào có công dân đồng thuận tuyệt đối về các vấn đề lịch sử. Tuy nhiên, các nhà giáo và truyền thông chính thống bắt buộc phải giảng dạy, tuyên truyền lịch sử chính thống.
B. LƯƠNG TRI PHỔ QUÁT
Nhiều người biện bạch rằng lịch sử viết bởi người chiến thắng. Tuy nhiên, trong thế kỷ 20 ở VN, người chiến thắng cũng là người có chính nghĩa. Việc đánh đuổi quân xâm lược, loại bỏ sự can thiệp của ngoại bang là chính nghĩa đối với mọi dân tộc trên thế giới.
Lịch sử VN cũng có những khúc quanh sai lầm. Đấy là thời kỳ hơn 150 năm, Gia Long và hậu duệ nắm chính quyền, dẫn đến việc bôi bẩn, vùi dập Quang Trung, gọi ông là “nguỵ”. Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyễn sụp đổ, từ 1954 trở đi Quang Trung lại trở lại đầy vinh quang, được ca ngợi ở cả hai miền Nam, Bắc, bất chấp thể chế chính trị. Đấy là vì thành tích chiến thắng ngoại xâm là thành tích đáng tự hào đối với mọi dân tộc trên thế giới. Trong khi đó, dần dần Gia Long trở về đúng vị trí của ông ta, sánh vai với những kẻ tiếp tay cho ngoại bang như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
Trên thực tế, giáo dục thời VNCH cũng nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Đó là sự kiện quá lớn, muốn che dấu cũng không được. Tuy nhiên, họ chỉ giảng dạy cho học sinh rằng nhân dân VN đã đánh bại quân đội Pháp nhưng không nhắc đến vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Thế nên nói rằng giáo dục thời đó trung thực thì không đúng. Việc chính quyền VNCH chấp nhận để người Mỹ chia đôi dân tộc cũng không xứng đáng với hai chữ “Dân tộc” trong khẩu hiệu “Nhân bản-Dân tộc-Khai phóng” mà họ tuyên truyền.
VNCH thua chủ yếu là vì họ không có chính nghĩa, không được lòng dân. Không chỉ riêng miền bắc, hàng triệu người miền nam cũng cảm thấy không chấp nhận việc Mỹ chia cắt đất nước, dựng lên một chính quyền bù nhìn, can thiệp quá nhiều vào công việc nội bộ của người Việt. Số bà mẹ VN anh hùng ở miền nam còn nhiều hơn cả miền bắc. Tính chung các cuộc kháng chiến, Quảng Nam là nơi có số liệt sĩ lớn nhất cả nước.
Một số kẻ hằn học nói rằng chế độ nào cũng sẽ đến lúc chấm dứt. Điều đó là đúng. Các triều đại Lý, Trần, Lê đã chấm dứt từ lâu. Ngày nay chúng ta không trở lại thời kỳ phong kiến, không chấp nhận chế độ vua chúa nữa. Nhưng chúng ta vẫn tri ân các vị vua có công chống giặc ngoại xâm và không lên án thể chế của họ. Bởi chúng ta hiểu thể chế ấy phù hợp với trình độ phát triển và bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Chế độ hiện nay không hoàn toàn là chế độ cộng sản bởi vì áp dụng kinh tế thị trường. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều có sự pha trộn các loại chủ nghĩa, không có nước nào thuần tuý là tư bản hay cộng sản nữa. Tuy nhiên, dân chủ kiểu phương tây cũng không nhất thiết là đích đến của nhân loại. Sau khi Đông Âu sụp đổ, Fukuyama hớn hở viết cuốn “Điểm tận của lịch sử” dự đoán rằng dân chủ sẽ là tương lai của nhân loại. Nhưng sau khi chứng kiến sự phát triển của Trung Quốc, ông ta đã nhanh chóng hối hận, và sửa lại lý thuyết của mình. Ông cho rằng, loài người có thể tiến vào thời kỳ Hậu Con người, trong đó công nghệ can thiệp vào nhận thức của công dân khiến họ tuân thủ chính quyền mà không cần đến dân chủ. Ngoài ra, dù Fukuyama không nói đến, nhưng do sự tiến bộ quá nhanh của công nghệ, rất có thể chính quyền robot mới là dạng chính quyền phổ biến trong tương lai gần, nghĩa là không cần đến bầu cử dân chủ nữa.
C. HOÀ GIẢI VÀ NHÂN VĂN
Thật ra chỉ có một vài người đứng đầu các chính quyền bù nhìn phải chịu trách nhiệm chính về việc làm tay sai cho ngoại bang. Tất cả các công dân khác, kể cả đa số tướng lĩnh, sĩ quan không có quyền quyết định về đường lối chính trị của quốc gia. Họ kiếm sống, phấn đấu công danh sự nghiệp dưới các chế độ đó là hết sức bình thường, có thể thông cảm được.
Nhân văn không có nghĩa là tẩy xoá lịch sử. Nhân văn có nghĩa là cố gắng không kì thị những người đã làm việc cho chế độ cũ. Không để hậu duệ của họ phải chịu thiệt thòi so với những người khác trong xã hội.

Sunday, August 24, 2025

NHỮNG BÀI QUAN TRỌNG

VÌ SAO PHONG TRÀO ĐỐI KHÁNG THẤT BẠI? CÔNG VIỆC GÌ CŨNG CẦN CÓ NGƯỜI TÀI VÀ TRIẾT LÝ ĐÚNG ĐẮN


TỰ NGHIÊN CỨU ĐỂ ĐẢ KÍCH TRIẾT HỌC MARX-LENIN ???


LỀ TRÁI ĐỊNH CHIẾM ĐOẠT THUẬT NGỮ “PHẢN BIỆN XÃ HỘI” CỦA NHÂN DÂN???


MỖI CHẾ ĐỘ ĐỀU PHẢI CÓ HỌC THUYẾT NỀN TẢNG


LƯƠNG TRI PHỔ QUÁT: VỊ THẾ KHÁC BIỆT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM, TRUNG QUỐC, NGA SO VỚI ĐÔNG ÂU


VÌ SAO ĐẢNG CỘNG SẢN CƯƠNG QUYẾT KHÔNG ĐỂ MẤT CHẾ ĐỘ




SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA PHƯƠNG TÂY

"CHA GIÀ DÂN TỘC" VÀ VĂN HOÁ TÔN THỜ LÃNH TỤ

MIẾN ĐIỆN: 77 NĂM VẬT LỘN VỚI HAI CHỮ "DÂN CHỦ"

SAUTINH GỌN BỘ MÁY: GIẢI PHÁP CẮT GIẢM THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ TƯ NHÂN HOÁ

TRÔNG NGƯỜI MÀ NGẪM ĐẾN TA


SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA PHƯƠNG TÂY

 Năm 1999, Yeltsin bị thất sủng nặng nề và đứng trước nguy cơ bị truy tố. Tội lỗi của ông ta không chỉ là quản lý kinh tế yếu kém mà chủ yếu là vì theo đuôi phương tây, bắn súng lục vào quá khứ. Yeltsin cấm đảng cộng sản hoạt động, phủ nhận các thành tựu của Liên Xô, không tôn vinh đúng mức chiến thắng của của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Hậu quả thật cay đắng, Liên Xô tan rã. Nước Nga mất quá nhiều đất đai. 25 triệu người Nga bỗng dưng biến thành người nước khác. Từ chỗ là cường quốc thứ 2 thế giới, Liên Xô sụp đổ, chỉ còn một nước Nga hỗn loạn và nghèo đói.

 

Yeltsin cũng dần dần vỡ mộng bởi dần dần hiểu ra phương tây không hề mong muốn nước Nga trở thành một quốc gia dân chủ hùng mạnh mà chỉ muốn Nga suy yếu tan rã. Bất chấp việc Yeltsin can ngăn NATO không mở rộng biên giới sang phía đông dẫn đến uy hiếp quốc phòng Nga, Clinton lạnh lùng từ chối. (Điều này chính Clinton tiết lộ trong cuốn hồi ký Đời tôi).

 

Chỉ trong vòng một năm rưỡi, Yeltsin thay 5 thủ tướng liên tiếp, nhằm tìm người kế vị giúp mình tránh bị truy tố. Putin là người thứ 5. Bất chấp sự nghi ngờ của giới chính trị gia, Yeltsin đã giúp Putin ngồi vào ghế tổng thống. Và đó là lựa chọn đúng đắn nhất cuộc đời ông ta.

 

Putin gọi sự sụp đổ của Liên Xô là "thảm hoạ địa chính trị lớn nhất của thế kỷ 20". Thật kỳ lạ, bởi vì thảm hoạ xảy ra nhưng không ai bị trừng phạt. Không ai phải chịu trách nhiệm. Mặc dù sự sụp đổ đó rõ ràng không phải do thiên tai.

 

Còn ai khác, nếu không phải Gorbachov, Yeltsin phải chịu trách nhiệm về thảm hoạ đó? Nhưng nếu truy tố Gorbachov, không lẽ lại không truy tố Yeltsin, kẻ trực tiếp gây ra thảm hoạ nhưng cũng chính là ân nhân của Putin? Putin không thể làm điều đó. Thế nên tôi tin tưởng sâu sắc rằng, sẽ đến một ngày sau khi Putin rời ghế, hai kẻ tội đồ đó bị lôi ra phán xét.

 

Putin nói rằng ông là tổng thống của mọi người Nga. Ông khôi phục lại nhiều giá trị của Xô Viết. Quốc ca Nga hiện nay lấy nhạc là quốc ca Liên Xô, chỉ thay lời. Nhiều bài hát thời Liên Xô lại trở thành bài hát của các lực lượng Nga. Ông cho phép đảng cộng sản hoạt động trở lại và kỷ niệm long trọng Ngày chiến thắng Phát xít Đức. Ông biết cách trân trọng quá khứ. Đó là lý do ông được người Nga yêu quý, và duy trì ghế tổng thống đến tận bây giờ.

 

Bản thân tôi nghĩ rằng nước Nga có nền tảng dân trí, văn hoá, kinh tế khá cao. Thế nên chuyển đổi thành quốc gia đa nguyên đa đảng cũng hợp lý. Tuy nhiên, có nhiều cách chuyển đổi êm ả, chứ không đau đớn và mất mát quá nhiều như vậy. Trên thực tế, hai gã bất tài Gorbachov và Yeltsin đã để cho Liên Xô rơi tự do.

 

*****

 

Vô số kẻ nông cạn thường tuyên truyền rằng Liên Xô sụp đổ là minh chứng rõ ràng cho sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản (CNCS) và khẳng định sự ưu việt của chủ nghĩa tư bản (CNTB). Tiếc rằng những người làm tuyên giáo đã không giải thích thoả đáng khiến cho luận điệu đó cứ lan tràn mãi.

 

Lời khuyên của tôi là luôn luôn so sánh sự sụp đổ của Liên Xô với sự sụp đổ của phương tây. Chủ nghĩa nào cũng có nhiều ưu điểm, nhược điểm và đã phải cải tổ rất nhiều.

 

1. CNTB đã ra đời từ thế kỷ thứ 16 và dần dần càng bộc lộ nhiều sự bệnh hoạn: kích thích chủ nghĩa đế quốc, xâm lược thực dân, buôn bán nô lệ, bắt người da đen qua châu Mỹ làm nô lệ, đàn áp bức hại người bản địa ở châu Mỹ, châu Úc để ăn cướp đất đai.

2. Ngay ở phương tây, người lao động bị bóc lột tàn tệ. Phải làm việc từ 12-16 tiếng một ngày, trong môi trường tồi tệ. Trẻ em 7-8 tuổi cho chí người già cũng phải lao động cực nhọc.

3. Đấy là lý do, CNCS xuất hiện và được đón chào nồng nhiệt ở ngay chính các nước tư bản. Nhiều dân tộc thuộc địa thì coi đó như là học thuyết cứu tinh.

4. Chính vì sự đấu tranh của những người cộng sản cho nên giới tư bản đã buộc phải cải tổ, cải thiện điều kiện việc làm và bảo vệ quyền lợi của người lao động.

5. Cách mạng tháng 10 Nga đã kích thích phong trào giải phóng dân tộc lan tràn khắp thế giới dẫn đến sự sụp đổ tan nát của phương tây. Nước Anh từ chỗ “mặt trời không bao giờ lặn” đã bị mất hết thuộc địa, quay trở về với hòn đảo bé tí. Một loạt các quốc gia Tây Âu như Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng bị đánh đuổi phải từ bỏ các thuộc địa, mất hết quyền lợi ở các xứ đó. Bản thân nước Mỹ phải chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính; bị đánh thua tan tác, mất uy tín ở khắp nơi trên thế giới.

 

Chỉ tính riêng thế kỷ 20, phương tây đã bị mất mát quá nhiều, cả về đất đai, tài nguyên, lẫn vị thế quốc tế. Điều rõ ràng là CNTB đã phải cải tổ quá nhiều.

 

Hầu hết các quốc gia ngày nay đều kết hợp của cả CNTB và CNCS. Thế nhưng vẫn có vô số kẻ da vàng, mũi tẹt không hiểu điều đó.

 

Lo ngại về học bổng Fulbright?

 Gần đây, một số người tuyên truyền rằng học bổng Fulbright là nguồn đào tạo gián điệp, chuẩn bị cho cách mạng mầu. Những người này thường không biết gì về hệ thống giáo dục Mỹ, cũng không biết gì về chính trị đối lập, nhưng mang sẵn định kiến trong đầu. Có nhiều người thậm chí không biết gì về khoa học xã hội và nhân văn. Cứ nghe chuyện thanh niên VN đến Mỹ học các ngành này là họ thấy khó chịu. Thế nên, tôi muốn giải thích một chút về những chuyện này.

 

 

A.  SƠ LƯỢC VỀ HỌC BỔNG FULBRIGHT

 

Quỹ học bổng Fulbright ra đời từ năm 1946. Mỗi năm quỹ này cấp khoảng 8000 học bổng (bao gồm khoảng 1600 học bổng cho sinh viên Mỹ, 1200 cho học giả Mỹ, 4000 sinh viên nước ngoài, 900 học giả, và vài trăm giảng viên và chuyên gia[1]. Tính đến nay, đã có khoảng 632,000 người Mỹ và các nước trên thế giới đã nhận học bổng này (trong đó, 410,800 người đến từ nước khác trên thế giới). Học bổng Fulbright là một trong những học bổng nổi tiếng nhất thế giới. 43 fulbrighter đã trở thành tổng thống/thủ tướng các quốc gia/vùng lãnh thổ; 62 fulbrighter từ 15 quốc gia được giải Nobel; 80 fulbrighter được giải MacArthur (giải dành cho thiên tài), và 90 fulbrighter được giải Pulitzer[2]. 

 

Với bảng thành tích như vậy, việc quy chụp học bổng Fulbright có mục đích chuẩn bị lực lượng cho cách mạng mầu rất khôi hài. Một trong những tiêu chí quan trọng để được học bổng Fulbright là có tố chất lãnh đạo, dẫn đầu về một lĩnh vực nào đó, có ý tưởng độc đáo phục vụ cộng đồng, hoặc có tiềm năng tạo ảnh hưởng tương đối khá trong xã hội. Chính vì vậy những người là lãnh đạo trung, cao cấp trong các cơ quan nhà nước, có triển vọng thăng tiến dễ được học bổng này. Các nhà khoa học và những trí thức đã có một số thành tựu cũng dễ được học bổng. Thế nên không có gì khó hiểu, nhiều cựu Fulbrighter đã vươn tới những giải thưởng lớn và những vị trí lãnh đạo quan trọng của quốc gia. Nói rằng nước Mỹ thực dụng, cố gắng gây ảnh hưởng lên các nước khác trên mọi lĩnh vực thông qua Fulbright thì đúng. Nhưng nói rằng có thể kết hợp những thành tích rất khó ấy với mục đích đào tạo gián điệp thì…tôi không biết cần phải nói gì nữa.

 

Nhiều người rất sợ chữ “gây ảnh hưởng” lên các nước khác, đặc biệt là những người không có kiến thức về khoa học xã hội & nhân văn. Thật ra nước nào cũng cố gắng “gây ảnh hưởng” lên nước khác. Ảnh hưởng đó bao gồm tạo ra hình ảnh thân thiện, khiến cho người dân nước khác hiểu và quý mến nước mình. Đào tạo cán bộ, để có cơ hội mở rộng quan hệ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, xã hội, khoa học, quân sự v.v.

 

Trước 1990, Mỹ chưa có chủ trương thu hút người nước ngoài đến Mỹ học tập, làm việc. Thậm chí họ còn duy trì các chính sách kỳ thị sắc tộc, giới tính. Phụ nữ và người da màu khó kiếm việc tốt ở Mỹ. Học bổng Fulbright là một trong những nguồn quan trọng nhất để du học Mỹ. Từ sau Thế chiến II đến nay, mới có tổng cộng 410,800 người nước ngoài du học, nghiên cứu, giảng dạy ở Mỹ bằng học bổng này. Nhưng từ 1990 đến nay, chính phủ Mỹ thay đổi quan điểm. Họ tăng cường thu hút du học và nhân tài đến Mỹ làm việc. Việc mở cửa cũng kéo theo nhiều người đến Mỹ công tác, làm nhân viên của các chi nhánh của các công ty đa quốc gia, các tổ chức quốc tế. Các nước cũng nô nức gửi người đến Mỹ học tập, công tác. Thế nên đã có vài chục người đến Mỹ học tập, công tác.  Năm học 2022-2023, số sinh viên quốc tế học tập ở Mỹ là 858,395 người (bậc đại học là 347,602, sau đại học là 467,027, và du học không lấy bằng 43,766)[3]. Năm học 2022-2023, tổng số du học sinh VN ở Mỹ là 21,900 (trong đó số sinh viên đại học là 14,295, sau đại học là 3,768 [4]). Tính từ 1975 đến nay, đã có tổng cộng vài trăm nghìn người Việt du học Mỹ từ bậc đại học trở lên. Trong khi đó, tổng số người Việt là Fulbrighter từ sau 1975 đến nay mới chỉ khoảng hơn 1000 người. Có vài chục loại học bổng để người Việt du học, nghiên cứu, giảng dạy ở Mỹ. Fulbright chỉ là một trong số đó. Thật ra, hiện nay đại đa người Việt du học Mỹ nhờ các học bổng của của trường, các dạng công việc kiểu như trợ lý giảng dạy, trợ lý nghiên cứu có lương. Số người Việt nhận học bổng Fulbright hàng năm khá nhỏ, tổng cộng mỗi năm chỉ khoảng 40-50 người. Không có lý do gì chính đáng để lo ngại các Fulbrighter hơn những người khác đã từng học tập, công tác ở Mỹ.

 

Theo đại sứ Vũ Quang Minh: “Thượng nghị sỹ William Fulbright là người đã phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, ủng hộ chủ nghĩa đa phương trong quan hệ quốc tế, ủng hộ LHQ và thúc đẩy thành lập lực lượng gìn giữ hoà bình. Ông cũng là người phản đối chính sách chống cộng cực đoan của một số lực lượng chính trị Mỹ, phản đối chính sách truy lùng và đàn áp những người bị coi là thân cộng sản ở Mỹ. Ông đã sáng lập chương trình học bổng trao đổi học thuật mang tên ông”.

 

B.  NHỮNG VÍ DỤ ĐỂ BÔI NHỌ CÁC FULBRIGHTER

 

Gần đây nhiều người trên Internet phổ biến một bài viết về ba ví dụ ở Chile, Bangladesh, và Liên Xô dưới đây. Tác giả dùng ba ví dụ này để minh hoạ rằng các fulbrighter là lực lượng chuẩn bị cho cách mạng mầu. Tuy nhiên, cả ba đều không thuyết phục.

 

1.    DỰ ÁN CHILE: Có 26 sinh viên Chile đã được đào tạo tại đại học Chicago từ năm 1956 đến năm 1964 để trở thành các chuyên gia kinh tế. Tác giả bài viết cho rằng 26 sinh viên này chính là lực lượng này là nòng cốt trong cuộc đảo chính năm 1973, lật đổ Tổng thống dân cử Salvador Allende để dựng lên chế độ độc tài Augusto Pinochet???

 

Lập luận như vậy là sai. Chile vốn là một quốc gia dân chủ, đa đảng lâu đời. Allende được người dân Chile bầu lên một cách dân chủ. Tuy nhiên, ông này ủng hộ chủ nghĩa Marx, và trở thành tổng thống ở thời kỳ Mỹ coi chủ nghĩa cộng sản là hiểm hoạ. Đó là lý do Mỹ quyết tâm lật đổ Allende năm 1973. Quân đội Chile chính là nhóm lật đổ. Không có chuyện 26 nhà kinh tế “trói gà không chặt” dính dáng đến vụ đảo chính này.

 

Mỹ là quốc gia mạnh nhất thế giới về kinh tế học, với 70% số giải Nobel kinh tế. Ngành kinh tế không có Hội nghị Toàn thể cứ mỗi 4 năm kiểu như ngành toán, bởi vì hội nghị thường niên của ngành kinh tế Mỹ chính là hội nghị quan trọng nhất của ngành, quy tụ các nhà kinh tế trên khắp thế giới hàng năm. Chile lại rất gần Mỹ. Các nhà kinh tế Chile không học ở Mỹ thì còn phải học ở đâu nữa? Cả thế giới đã chuyển sang kinh tế thị trường, kể cả VN, cho dù VN không hề có đảo chính. Hiện nay đa số các chương trình đào tạo kinh tế học ở các trường đại học VN đều sử dụng các tài liệu của Mỹ. (Không phải là tài liệu của Trung Quốc hay Nga. Bởi lẽ, về kinh tế, hiện nay sinh viên Trung Quốc, Nga, và cả thế giới cũng học tài liệu của Mỹ). Chỉ các môn như triết học, VN hiện nay dùng tài liệu của Trung Quốc và Nga. Thế nên, 26 nhà kinh tế Chile áp dụng lý thuyết của Mỹ sau khi Pinochet lên cầm quyền có gì đáng ngạc nhiên?

 

Quan trọng là chỉ nên tính THỜI ĐIỂM ĐẢO CHÍNH. Những ai đã trực tiếp đóng góp quan trọng vào đảo chính? Còn sau khi có đảo chính, ai thăng tiến, áp dụng lý thuyết gì không phải là điều quan trọng nữa. 26 nhà kinh tế có biết cầm súng đâu mà lại gán cho họ tham gia đảo chính? (Chưa nói đến việc ai trong số này được học bổng Fulbright???).

 

2.    MUHAMMAD YUNUS Ở BANGLADESH: Thời trẻ, Yunus từng làm chuyên gia trong Uỷ Ban Kế hoạch của Chính phủ Bangladesh. Tuy nhiên, do thấy công việc đó nhàm chán, ông bỏ việc và trở thành giáo sư đại học và dành cả cuộc đời để phát triển hệ thống ngân hàng tín dụng vi mô. Đấy là mô hình ngân hàng hoàn toàn mới trên thế giới. Cho người nghèo vay không cần thế chấp. Thế nên việc đảm bảo cho hệ thống ngân hàng đó tồn tại và phát triển được vô cùng vất vả. Vậy mà ông ấy làm được và đem lại lợi ích cho hàng chục triệu người nghèo Bangladesh. VN cũng phải học tập mô hình này của ông. Giới nghiên cứu kinh tế khắp thế giới đều biết những cống hiến của ông ấy từ rất lâu rồi. Việc ông ấy được giải Nobel Hoà Bình, Huân chương Tự do của Mỹ là hoàn toàn hợp lý. Mẹ Teresa cũng được hai giải thưởng này.

 

Nếu Yunus ham thích chính trị thì ông sẽ phải tiếp tục làm việc trong bộ máy nhà nước để tìm cách leo cao từ thời trẻ. Sau khi Bangladesh đảo chính, tổng thống Bangladesh cử ông này làm thủ tướng tạm quyền. Chuyện này dễ hiểu, bởi Yunus là người Bangladesh duy nhất được giải Nobel. Mô hình tín dụng vi mô của ông đã giúp cho hàng chục triệu người nghèo cho nên uy tín của ông ở Bangladesh rất lớn. Mỹ nào cử một ông già 84 tuổi lên cầm quyền, nhỡ được vài tháng ông ý lăn ra ốm liệt giường?

 

Điều quan trọng là chỉ nên tính đến THỜI ĐIỂM ĐẢO CHÍNH. Một cá nhân hoặc tổ chức đóng góp tích cực trực tiếp như thế nào vào việc đảo chính? Còn sau khi đảo chính, cái gì xảy ra không còn quan trọng nữa. Bangladesh có hàng triệu người thích Mỹ, không người này lên thì sẽ có người khác.

 

Một số người không có kiến thức về chính trị đối lập còn gọi Yunus là “thủ lĩnh sinh viên” (?). Đám thanh niên trẻ làm đảo chính trực tiếp cộng tác với nước ngoài, bởi vì nước ngoài cung cấp cho họ tiền bạc, danh tiếng, cơ hội tị nạn chính trị nếu họ bị truy tố. Họ làm đảo chính vì họ ham trở thành anh hùng, là “những người lãnh đạo cách mạng”. Ngược lại, đám “thầy dùi” ở hải ngoại chiều đám bạo loạn trong nước như “chiều vong”. Người già thì đóng góp được gì đảo chính? Không có chuyện già, trẻ phối hợp nhau làm đảo chính, bởi vì đám trẻ vốn coi thường đám già. Đám “thực hành” vốn không ưa đám “lý thuyết”.

 

Thời cách mạng vô sản ngày xưa hoàn toàn khác. Ngày xưa các nhà tư tưởng tranh luận với nhau rất nhiều, rồi mới hoàn thiện các lý thuyết. Sau đó, câc nhà hoạt động đem các lý thuyết đó ứng dụng để làm cách mạng. Các nhà hoạt động làm cách mạng thành công xong vẫn treo ảnh, ca ngợi các nhà tư tưởng như Marx, Elgel. Lý tưởng đánh đuổi ngoại xâm, giành độc cho dân tộc rất cao đẹp, mạnh mẽ cho nên được đông đảo người dân ủng hộ. Nhưng ngày nay, khoa học xã hội đã phát triển khủng khiếp. Các chuyên gia học hỏi đến già, thường xuyên trao đổi trong cộng đồng chuyên gia, vẫn không dám chắc chắn về hiểu biết của mình. Đám trẻ nổi loạn ngày nay bị kích động bởi lý tưởng dân chủ, nhân quyền hời hợt của phương tây. Chúng hoang tưởng là chúng có khả năng hiểu được các vấn đề chính trị quan trọng của quốc gia.  Tất cả đám trẻ ấy đều nông cạn, sùng bái phương tây mù quáng, coi thường các chuyên gia trong nước theo chủ nghĩa dân tộc. Đấy là đám bất nhân, bất nghĩa, dốt nát cho nên sẵn sàng câu kết với ngoại bang, chửi bới tiền nhân, đạp lên thành quả của cha ông để chứng tỏ bản thân. Họ làm cách mạng là để công chúng phải ca ngợi họ. Không có chuyện đám trẻ tôn vinh một ông già làm thủ lĩnh. Không có chuyện họ nghe lời một ông già, người không có khả năng đem lại cái gì cho họ. Mâu thuẫn trong nội bộ giới chính trị đối lập ngày nay, đặc biệt là mâu thuẫn trẻ-già và mâu thuẫn giữa “giới lý thuyết”-“giới hoạt động” là không thể dung hoà.

 

Có một số người nói rằng “Mỹ nuôi Yunus” để đợi ngày đảo chính (?) Ở mọi quốc gia, con đường thăng tiến về chính trị rất bấp bênh. Xưa nay, việc “nuôi gián điệp” luôn đòi hỏi gián điệp đó có những hành vi phá hoại hoặc cung cấp thông tin mật cho nước ngoài. Không có chuyện một gián điệp nào đó mấy chục năm không làm gì, nằm “há miệng chờ sung” để trở thành lãnh đạo quốc gia. Thậm chí Yunus đã từ bỏ phấn đấu theo con đường chính trị từ thời trẻ, để làm giáo sư, làm ngân hàng.

 

Nói vắn tắt, đến giờ phút này không bằng chứng gì về việc Yunus làm tay sai cho Mỹ. Nói rằng ông ta là nhân tố của cách mạng mầu ở Bangladesh là không có cơ sở. Banladesh vốn là nước dân chủ đa đảng, đại nghị. Nếu việc chuyển giao quyền lực từ đảng nọ sang đảng kia êm ả thì không có gì đáng bàn. Điều duy nhất khiến chúng ta quan tâm là họ chuyển giao quyền lực bằng đảo chính. Thế nên, quan tâm đến bạo loạn, cách mạng màu thì chỉ nên quan tâm đến những người đóng góp trực tiếp và đáng kể để tạo ra các vụ bạo loạn, đảo chính đó thôi.

 

 

3.    YAKOVLEV Ở LIÊN XÔ:

 

Nhiều người lan truyền truyền thuyết rằng Yakovlev là gián điệp của Mỹ và đóng góp chính khiến Liên Xô sụp đổ. Yakovlev học về Lịch sử (chứ không phải kinh tế) ở Mỹ một năm, sau đó làm đại sứ ở Canada 10 năm.

 

+ Vai trò phá hoại lớn nhất, kinh khủng nhất là Gorbachov. Ông này đã bổ nhiệm, cài cắm hàng trăm người ủng hộ đường lối Cải tổ, Công khai hoá của ông ta vào các vị trí lãnh đạo cao cấp. (Trích cuốn Hồ sơ quyền lực Gorbachev: “Tổng cộng, Gorbachev đã thay 14 trong 23 lãnh đạo các ban trong Ban Bí thư. Không một nhà lãnh đạo nào trước đây thay đổi nhiều nhân sự trong bộ máy Nhà nước và Đảng như vậy trong năm cầm quyền đầu tiên. Ở Liên bang Nga, 24 bí thư thứ nhất tỉnh ủy và khu ủy đã bị thay đổi, cũng như 23 trong số 78 người trong các nước cộng hòa không phải Nga (thuộc các nước cộng hòa khác trong Liên Xô). Trong số 14 bí thư thứ nhất của các đảng cộng sản ở các nước cộng hòa, có bốn người mới. Trong Chính phủ, 39 trong số 101 bộ trưởng Xô viết bị sa thải. Trên toàn quốc khoảng một phần năm tổng số quan chức ở các cơ quan Đảng quan trọng nhất bị mất chức và số lượng các quan chức chính phủ bị sa thải hoặc bị thuyên chuyển công tác phải lên đến hàng nghìn”.)

+ Gorbachev đưa ra chế độ bầu cử tổng thống, loại bỏ sự can thiệp của Đảng vào quá trình quản lý kinh tế, triệu tập một Đại hội Đại biểu Nhân dân và tiến hành bỏ phiếu cạnh tranh.

+ Tại Liên Hợp Quốc, Gorbachev tuyên bố Liên Xô cắt giảm lực lượng vũ trang xuống 500 nghìn quân trong vòng 2 năm mà không đòi phải có động thái đáp lại của Mỹ hay đồng minh của Mỹ.

+ Ngày 5/2/1990, Trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, Gorbachev đề nghị bỏ hẳn vai trò lãnh đạo của Đảng (Điều 6 của Hiến pháp Liên Bang Xô viết), chấp nhận hệ thống đa đảng và thông qua “chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhân văn”. Những điều này được chấp nhận vào ngày 7/2, sau một cuộc tranh cãi kịch liệt.

 

Nói vắn tắt, sự sụp đổ của Liên Xô có công sức hàng đầu và kinh khủng nhất của Gorbachov cùng với hàng trăm quan chức cao cấp. Những người này không có liên quan gì đến Mỹ hay Fulbright. Nhân vật đặc biệt nguy hiểm thứ hai sau Gorbachov là ngoại trưởng Shevardnadze. Shevardnadze là người bị giới quân sự thông báo sẽ treo cổ một ngày nào đó “vì tội quy phục Mỹ”. Yakovlev chỉ là một trong số đó. Việc phóng đại vai trò của Yakovlev trong việc Liên Xô tan rã nghĩa là từ chối thừa nhận nền chính trị Liên Xô khi ấy có quá nhiều “lỗi hệ thống” nghiêm trọng, và vai trò phá hoại của hàng trăm người khác, (những người không liên quan gì đến Fulbright).

 

 

C.  CÓ NÊN LO NGẠI CÁC FULBRIGHTER?

 

Trước tiên, tôi muốn nói về quy trình tuyển học và du học bằng học bổng Fulbright. Học bổng Fulbright bậc thạc sĩ là một trong những học bổng cạnh tranh nhất ở VN. Sau khi được chính thức lựa chọn, những người được học bổng Fulbright sẽ phải tự chọn chương trình học ở Mỹ, và tự nộp hồ sơ. Sau khi được một số chương trình chấp nhận cho họ vào học, các fulbrighter mới làm việc lại với Quỹ học bổng Fulbright để chốt điểm đến cuối cùng. Những người nhận học bổng Học giả Fulbright thì có thể liên hệ với các trường ở Mỹ trước hoặc sau khi có học bổng. Cần nhấn mạnh là các chương trình nhận các Fulbrighter đến học tập, nghiên cứu, giảng dạy đều là các chương trình xếp hạng cao hoặc khá ở Mỹ về mặt học thuật. Giảng viên của các chương trình này là những người có thành tích cao về nghiên cứu học thuật. (Đương nhiên, các chương trình đó hoàn toàn khác với các chương trình đào tạo ngắn hạn về chính trị đối lập, với giảng viên là các nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền).

 

1.    Không có lý do để lo ngại các Fulbrighter hơn những người khác:

+ Các trường đại học nơi Fulbrighter học tập, công tác không phải là các trung tâm của CIA:  Các giảng viên được tuyển chọn giảng dạy ở các nơi đó đều có các thành tích cao về học thuật. Đương nhiên có một số rất rất nhỏ những người làm việc cho CIA, hoặc có ác cảm với các quốc gia như VN. Họ cũng có thể tuyên truyền một số điều lệch lạc theo quan điểm của họ. Tuy nhiên, về nguyên tắc họ vẫn phải giảng dạy đầy đủ lý thuyết và thực tiễn chuyên môn, dạy học viên tư duy đa chiều, tự nghiên cứu tài liệu. Chính vì được giảng dạy đầy đủ lý thuyết, tư duy đa chiều, tự nghiên cứu tài liệu cho nên học viên không dễ bị kích động. Ngoài ra mỗi học viên phải học vài chục môn học với nhiều giảng viên khác nhau.

+ Nếu có giảng viên nào đó giảng dạy những nội dung lệch lạch thì đó chỉ là muối bỏ bể so với hàng triệu thông tin lề trái đầy rẫy trên Internet. Trên thực tế, những giảng viên như vậy chỉ là thiểu số rất nhỏ.

+ Những giảng viên tuyên truyền nhiều quan điểm chính trị cực đoan cũng dễ bị các nhóm sinh viên, phụ huynh, và các nhóm chính trị (ví dụ các nhóm sinh viên cánh tả) tẩy chay, gây áp lực đuổi việc.

 

2.    Nếu lo ngại thì phải cảnh giác với tất cả những người du học, công tác ở Mỹ:

+ Thời kỳ Yacovlev du học Mỹ, Liên Xô đóng cửa với phương tây, không chủ trương đưa người sang phương tây học tập. Phương tây cũng chưa có chủ trương thu hút nhân tài từ các nước kém phát triển và từ các nước đối thủ. Học bổng Fulbright là nguồn hiếm hoi và quan trọng để du học ở Mỹ. Thế nên trường hợp Yacovlev bị chú ý vì khá hiếm người Liên Xô đi du học Mỹ. (Suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, chỉ có khoảng vài trăm đến vài nghìn người). Tuy nhiên ngày nay, các nước đua nhau gửi quan chức, cán bộ, sinh viên đến Mỹ học. Tập Cận Bình cũng gửi con gái học ở Mỹ khi ông đã là phó chủ tịch nước. Hun Sen cũng cho tất cả các con học ở Mỹ. Tính từ 1991 đến nay, Trung Quốc và Nga đã có hàng triệu người học tập, công tác ở Mỹ. VN cũng có vài trăm nghìn người. Trong khi đó số Fulbrighter tính từ 1975 đến nay tổng cộng mới khoảng 1000 người. Từ 1990s đến nay, đại đa số người đến Mỹ du học bậc thạc sĩ, tiến sĩ dưới dạng học bổng của trường đại học hoặc làm trợ giảng, trợ lý nghiên cứu có lương (không liên quan gì đến Fulbright). Ngoài ra có vài chục loại học bổng khác với Fulbright.

 

3.    Những người bất mãn chế độ là ai?

+ Nguy cơ một người học tập, công tác ở Mỹ trở thành bất mãn, thậm chí cộng tác với các tổ chức chống chế độ là có thật. Nhưng đó là nguy cơ đối với tất cả những người du học, công tác ở Mỹ, chứ không riêng gì Fulbrighter. Động lực chủ yếu biến họ trở thành bất mãn là các tài liệu, video clip đầy rẫy trên Internet, các liên hệ với giới bất mãn chế độ và giới chính trị gia ở Mỹ.

+ Nguy cơ không chỉ ở Mỹ mà đến từ tất cả các nước khác: Chỉ tính 15 năm trở lại đây, có đến 5, 6 đại sứ, lãnh đạo ngoại giao, thậm chí UVTW, về hưu bỗng dưng diễn biến hoà bình. Có cán bộ phụ trách lãnh sự nghỉ hưu chạy ra nước ngoài tị nạn. Tất cả đều không liên quan gì đến Fulbright, thậm chí không ai học ở Mỹ. Tập hợp Thanh niên Dân chủ ra đời ở Pháp. 72 người đòi thay đổi hiến pháp hay 127 trí thức viết thư ngỏ đòi cải tổ chính trị, chả liên quan gì đến Fulbright, thậm chí không liên quan gì đến Mỹ. Từ 1975 đến nay đã có hàng nghìn người quốc tịch VN công khai chống phá chế độ, nhưng tuyệt đại đa số không liên quan gì đến Fulbright. Tuyệt đại đa số được đào tạo ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam, Trung Quốc.

+ Không có bằng chứng nào cho thấy những người học tập ở Mỹ, đặc biệt là fulbrighter, dễ diễn biến hoà bình hơn những người không học. Thực tế cho thấy, đội chống phá VN điên cuồng nhất là những người không hề được đào tạo chính quy ở phương tây. Thiếu hiểu biết về phương tây khiến họ có nhiều hoang tưởng về tự do, về nhân quyền ở các xứ đó. (Không tính đến các khoá đào tạo chính trị đối lập ngắn hạn, chủ yếu được tổ chức ở các nước gần VN).

+ Gần đây, có một số quan chức VN là fulbrighter bị kỷ luật. Nhưng cũng giống như hàng nghìn quan chức khác, lý do bị kỷ luật là nghi ngờ dính đến tham nhũng hoặc các vấn đề khác, chứ không liên quan đến diễn biến hoà bình.

 

4.    Làm thế nào để biến một người bình thường trở thành chống phá chế độ:

Từ 1990 đến nay, sau khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ, đã có vài trăm nghìn người Việt đến Mỹ học tập, công tác. Giới chính trị hải ngoại không có sức để quan tâm đến tất cả.

+ Đối với những bình thường đi Mỹ du học hoặc công tác (nghĩa là những người không có tiềm năng trở thành lãnh đạo trung/cao cấp ở nhà nước, hoặc có ảnh hưởng tương đối lớn trong xã hội VN): chỉ những người thường xuyên tỏ ra bất mãn chế độ hoặc có hành động phản kháng hơn mức bình thường thì mới được giới chính trị hải ngoại “chăm sóc đặc biệt” để lôi kéo họ trở thành đối lập. Ví dụ: những người thường xuyên viết bài chỉ trích các cá nhân, tổ chức; những người nhiều lần dám chỉ trích đường lối của đảng cộng sản; những người giữ vai trò admin, moderator của các website chính trị đối lập; hoặc nhiều lần tham gia các hoạt động của đội cờ vàng (chẳng hạn như đi biểu tình). Ở đây nhấn mạnh chữ “thường xuyên”, bởi những người năm thì mười hoạ mới thể hiện sự bất mãn thì cũng không được ai quan tâm.

+ Đối với những người (có tiềm năng) là lãnh đạo trung, cao cấp ở khu vực công, hoặc có (tiềm năng) ảnh hưởng tương đối lớn trong xã hội đi du học hoặc công tác: Số người này không nhiều cho nên được giới chính trị hải ngoại tiếp cận, thăm dò quan điểm nhiều hơn. Một số rất nhỏ những người người kém hiểu biết chính trị, có cá tính ngông cuồng, thì cũng dễ bị kích động trở thành bất mãn, thậm chí làm tay sai, gián điệp cho ngoại bang. 

 

Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh là không chỉ đi Mỹ mới như vậy mà đi các nước phương tây khác cũng vậy. Ai am hiểu về chính trị đối lập đều biết các tổ chức đối lập chống phá VN tập trung nhiều nhất là ở các nước láng giếng (Thái Lan, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Philippines, Úc), các nước SNG cũ và châu Âu (Pháp, Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc).

 

 

D.      TIÊN TRÁCH KỶ, HẬU TRÁCH NHÂN

 

+ Gorbachov giữ vai trò hàng đầu, quan trọng nhất trong sự sụp đổ của Liên Xô. Chính ông ta đã cài cắm hàng trăm quan chức, lãnh đạo cao cấp đồng tình với các quan điểm dân chủ hoá, công khai hoá của ông ta từ trung ương đến địa phương. Không có Gorbachov thì Yakovlev cũng không làm gì được, bởi ông ta đã được KGB lưu ý và ngăn chặn làm UVTW trong các đời tổng bí thư trước Gorbachov. Yakovlev chỉ là một trong hàng trăm lãnh đạo cao cấp góp phần khiến Liên Xô sụp đổ.

+ Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến Liên Xô sụp đổ là do không tiến hành kinh tế thị trường và mở cửa với thế giới sớm hơn. Bởi nếu chuyển đổi kinh tế thị trường sớm hơn khoảng 1 thập kỷ thì các quan chức cao cấp, và ngay cả Gorbachov sẽ thấy được những thành tựu đổi mới sớm, và không cho rằng đổi mới kinh tế phải đi liền với đổi mới chính trị.

+ Từ sau thế chiến II đến nay, mới có khoảng 410,800 fulbrighter đến từ các quốc gia ngoài Mỹ, nhưng có đến vài chục triệu đã từng học tập, công tác ở Mỹ. Không có lý do gì để lo ngại các fulbrighter hơn những người khác đã học tập và công tác ở Mỹ, và các quốc gia phương tây khác. Không có bằng chứng các nhà kinh tế thuộc Dự án Chile hoặc Muhammad Yunus trực tiếp đóng góp phần quan trọng vào đảo chính ở Chile và Bangladesh.

+ Việc học tập ở Mỹ và phương tây đem đến rủi ro là một số người sẽ trở thành tay sai, gián điệp cho ngoại bang. Bù lại, những kiến thức khoa học và văn minh ở các quốc gia đó rất hữu ích để phát triển VN. Tất cả các quốc gia, kể các nước mà Mỹ coi là kẻ thù như Trung Quốc, Nga đều gửi vô số thanh niên, cán bộ đến Mỹ học tập. Chẳng có lý do gì VN đi ngược lại xu thế ấy. Trên thực tế, những người me tây, cuồng tín nhất là những người không học tập ở phương tây. Những người đã gây ra những cơn địa chấn ở Liên Xô, Đông Âu, Michael Gorbachov, Boris Yeltsin, Lech Walesa, Vaclav Havel, hay địa chấn ở Trung Quốc như Hồ Diệu Bang, Triệu Tư Dương đều không học tập ở phương tây và càng không liên quan đến học bổng Fulbright.

 

 

[1]https://en.wikipedia.org/wiki/Fulbright_Program

[2]https://eca.state.gov/fulbright/fulbright-alumni/notable-fulbrighters

[3] https://www.statista.com/statistics/237689/international-students-in-the-us-by-academic-level/

[4]https://vnexpress.net/viet-nam-dung-top-5-ve-so-du-hoc-sinh-o-my-4676390.html

[5]https://vietnamnet.vn/diep-vien-co-anh-huong-khien-lien-xo-tan-ra-651645.html

Nhà nước nên quản lý lâu dài việc phân phối nhà ở xã hội

 Tại sao chuyện quản lý mua bán nhà ở xã hội lại khó khăn thế nhỉ. Nhiều người rất giầu nhưng vẫn tìm cách mua nhà ở xã hội để kinh doanh, trong khi vô số người trẻ đi làm cả đời cũng không đủ tiền mua nhà. Tôi có mấy ý kiến thế này:

1. Xét duyệt kỹ hồ sơ. Chỉ những người ít bất động sản và tài sản nói chung ( tính về giá trị) và đã làm việc ở khu vực đó ít nhất 5 năm mới được quyền mua noxh.

2. Danh sách khách đăng ký mua và chính thức được quyền mua noxh phải công khai trên website ubnd tỉnh hoặc phường trong nhiều năm. (Đầy đủ tên, tuổi theo cccd, và nơi làm việc).

3. Tổ chức rút thăm những người được quyền mua noxh từ danh sách những người đủ điều kiện đăng ký mua noxh.

4. Nhà nước quản lý vĩnh viễn noxh: nếu người đó mua 1 căn nhà khác có giá trị tương đối cao ở mức nào đó hoặc có những tài sản khác có giá trị, thì phải bán lại noxh cho nhà nước. Giá bán nêu ở mục 5.

5. Nếu vì lý do nào đó muốn bán lại noxh thì chỉ được phép bán cho nhà nước với giá bằng giá noxh ở thời điểm đó. Tuy nhiên, không được quyền bán noxh trong vòng 5 năm sau khi chủ hộ mua nhà.

6. Nói chung không được phép cho những người không phải là họ hàng cấp 1, 2 vào sống chung trong noxh. Trừ phi người đó cũng là đối tượng đủ điều kiện mua noxh ở khu vực đó nhưng ubnd tỉnh không đủ khả năng cho họ cơ hội mua noxh trong tương lai gần. Nhưng đó chỉ là tạm trú, không được phép chia sổ đỏ. Việc tạm trú này cũng phải được sự đồng ý của UBND cấp xã. Khi nào người tạm trú có cơ hội mua noxh thì phải ra khỏi nơi tạm trú.

7. Công an hộ khẩu, phường xã kiểm tra thường xuyên đối tượng sống ở noxh. (Đặc biệt là trong 2 năm đầu tiên). Nếu phát hiện những người không phải là người thân hàng thứ nhất, thứ 2 của chủ hộ, hoặc đối tượng nêu ở mục 6, sống ở đó trong thời gian dài thì chủ hộ sẽ bị phạt, khách bị cưỡng chế ra khỏi nhà.

8. Thừa kế, thuê mướn, tặng cho: được phép thừa kế, thuê mướn, tặng cho người thân hàng thứ nhất và thứ 2, nhưng người thân đó cũng phải đủ điều kiện sở hữu noxh. Không được phép thừa kế, thuê mướn, tặng cho với các đối tượng khác.

9. Bây giờ quỹ noxh còn quá nhỏ thì cần quy định khắt khe như vậy. Khi quỹ dồi dào thì sau khoảng 20 năm sống ở noxh, chính chủ sẽ được quyền sở hữu hoàn toàn căn nhà đó, nhà nước không quản lý nữa.

Vấn đề là nhà nước có muốn quản lý chặt hay không thôi??