Friday, September 27, 2024
VỀ ANH TRẦN HUỲNH DUY THỨC VÀ CỘNG ĐỒNG ĐỐI LẬP VN
Là một người đã theo dõi chính trị đối lập nhiều năm, thậm chí đã vài lần tham gia các nhóm chính trị đối lập, tôi muốn có một vài lời với anh Trần Huỳnh Duy Thức, nhân dịp anh được ra tù sớm. Bài viết này không chỉ dành cho anh Thức, mà còn nhằm hướng đến những người đang theo đuổi con đường chống chế độ.
Công bằng mà nói, so với giới đấu tranh dân chủ - cộng đồng mà hầu hết có năng lực tư duy rất kém, thậm chí có nhiều người xôi thịt (làm chính trị vì tiền, vì danh, vì vé tị nạn), anh Thức là người có tư chất và nhân cách ổn hơn cả. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu anh được bầu chọn là người có uy tín nhất trong cộng đồng ấy. Anh lại có tài kinh doanh. Nếu không dính vào chính trị, anh có thể đã trở thành một doanh nhân thành đạt.
Tuy nhiên về chính trị, anh đã mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng giống như toàn bộ cộng đồng ấy:
1. Thiếu quá nhiều kiến thức để có thể phán xét các chủ trương, đường lối của
quốc gia:
VN hiện giờ không phải là thời 1945, thời kỳ toàn dân mù chữ. Đó cũng là thời kỳ
người Việt mất nước. Các sĩ phu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí
Minh…là những người hiểu biết nhất trong xã hội. Thế nên đấu tranh giành độc lập,
tự do cho dân tộc là điều tất yếu họ phải làm.
Ngày nay, chính quyền đã về tay người Việt. Cộng thêm, khoa học đã phát triển
lên những tầm cao khủng khiếp. Quốc gia nào cũng cần đội ngũ các giáo sư, tiến
sĩ, thạc sĩ thuộc các lĩnh vực quản trị nhà nước, có kinh nghiệm nghiên cứu lâu
năm, làm cố vấn chính trị. Ngoài kiến thức lý thuyết, quan trọng hơn cả là kiến
thức thực tiễn. Không phải phi lý, quốc gia nào cũng đánh giá cao những người
đã có trải nghiệm thực tiễn về điều hành địa phương, chẳng hạn như thống đốc, tỉnh
trưởng, thị trưởng, (ở VN là bí thư, chủ tịch tỉnh). Mỗi chủ trương, đường lối
chính trị lớn của quốc gia đều cần sự bàn bạc của chuyên gia thuộc nhiều ngành
khác nhau: luật pháp, chính sách, kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại.v.v. Những kiến thức lý thuyết và thực hành đó không thể tự học được mà
phải theo học các khoá học bài bản, hoặc phải có trải nghiệm thực tiễn (v.d.,
làm bí thư, chủ tịch tỉnh). Đấy là chưa kể, để quyết định về chủ trương, đường
lối của quốc gia còn phải dựa trên các thông tin tình báo, thông tin mật (trao
đổi giữa các nguyên thủ) là những thông tin chỉ một số ít lãnh đạo cao cấp nhất
được quyền truy cập.
Nhưng anh cũng giống như toàn bộ cộng đồng đối lập không hiểu điều đó. Các anh
tưởng rằng chỉ cần tự học những kiến thức lộn xộn; đọc những bài báo, cuốn sách
dành cho đại chúng là đủ trình độ để phán xét VN nên đi theo con đường nào.
2. Thiếu quá nhiều kiến thức cho nên quá tin vào giới chính trị phương tây, giới
chính trị Việt kiều, và cộng đồng có thù hận với chế độ:
Những người nghiên cứu sâu về khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) đều biết
rằng KHXH&NV rất khác với khoa học tự nhiên, kỹ thuật. Bở lẽ KHXH&NV có
biên giới. Không thể tuỳ tiện đem mô hình, luật pháp, chính sách của nước này
áp dụng vào nước khác. Những vấn đề chủ trương, đường lối lớn của mọi quốc gia
chỉ do một nhóm lãnh đạo cao cấp nhất bàn bạc và quyết định, có sự tham khảo ý
kiến của các chuyên gia. (Ở VN thì thường chỉ các uỷ viên bộ chính trị bàn bạc
và quyết định. Ở Mỹ thì tổng thống, một số người trong nội các, và các lãnh đạo
đảng cầm quyền quyết định). Người nước ngoài không được phép can thiệp vào quy
trình ra quyết định ấy. Đó là chủ quyền quốc gia về lĩnh vực luật pháp và chính
sách.
Người nước ngoài, những người không sống ở VN nhiều năm, thường thiếu quá nhiều
kiến thức thực tiễn để bàn về các vấn đề của VN. Đấy là chưa kể, người nước
ngoài, (bao gồm những người gốc Việt), thường phục vụ lợi ích của nước họ chứ
không phải lợi ích của VN. Thế nên quan điểm của họ thường không đáng tin cậy.
Nghĩa là họ không đủ cả Tâm lẫn Tầm để bàn về các vấn đề của VN. Những người có
thù hận cũng thường có xu hướng muốn trả thù chứ không đủ khách quan để tư duy
vì lợi ích của toàn dân tộc. Tuy nhiên, do thiếu quá nhiều kiến thức, các anh
quá tin tưởng vào ý kiến của đám chính trị phương tây và giới chống cộng Việt
kiều, và đám người có thù hận với chế độ.
3. Thiếu quá nhiều kiến thức cho nên không phân biệt được giới khoa học, giới
quản lý với giới chính trị (các chính trị gia, các nhà hoạt động chính trị, hoạt
động nhân quyền).
VN hiện nay cần học hỏi khoa học và văn minh phương tây. Chúng ta cần học hỏi
các nhà khoa học, nhà tư tưởng, nhà quản lý của phương tây trên hầu hết các
lĩnh vực xã hội, bởi lẽ khoa học, công nghệ, triết lý, và quản lý xã hội của họ
đều vượt xa chúng ta. Tuy nhiên, cần phân biệt giới khoa học, giới tư tưởng, quản
lý với giới chính trị phương tây (các chính trị gia, các nhà hoạt động chính trị,
hoạt động nhân quyền). Đám chính trị gia phương tây thường có kinh nghiệm lãnh
đạo quốc gia nhưng đều tư duy vì lợi ích nước họ. Trong khi đó, giới hoạt động
chính trị, hoạt động nhân quyền thường thiếu quá nhiều kiến thức (cả lý thuyết
lẫn thực tiễn) để điều hành một quốc gia.
4. Thiếu quá nhiều hiểu biết về xã hội phương tây:
Anh Thức và cộng đồng đối lập thường mắc một căn bệnh giống nhau, đó là quá thiếu
hiểu biết về khoa học và xã hội phương tây. Thế nên, các anh thường phán xét bừa
bãi, chẳng hạn như chê bai kịch liệt chủ nghĩa Marx-Lenin. Anh Thức có thể tham
khảo bài viết của tôi “Giới khoa học phương tây rất trân trọng và ngưỡng mộ
Karl Marx”[1], để hiểu giới nghiên cứu phương tây thực sự nghĩ gì về Marx. Đấy
là chưa kể, các anh thiếu quá nhiều hiểu biết về văn minh phương tây cho nên
hoang tưởng các nước đó là những nơi “vô thiên, vô pháp”, tự do phi giới hạn.
5. Ảo tưởng, so sánh bản thân với những người kháng chiến thời tiền khởi nghĩa:
Thời kỳ trước 1945, người Việt là dân mất nước. Mọi công việc hệ trọng của quốc
gia đều do toàn quyền đông dương và các quan khâm sứ quyết định. Thực dân Pháp
thực hiện chính sách ngu dân cho nên đến khi giành được độc lập, năm 1945, VN
có đến 95% dân số mù chữ. Thế nên, các trí thức uy tín nhất trong xã hội thời
đó tất yếu phải đánh đuổi giặc Pháp để giành chính quyền về tay người Việt.
Ngày nay, người Việt đã nắm quyền lãnh đạo đất nước. Các lãnh đạo và chuyên gia
VN đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm điều hành quốc gia. VN cũng đạt được
nhiều thành tựu nhất định trên nhiều lĩnh vực xã hội. Trong khi đó, các anh thiếu
quá nhiều kiến thức để có thể phán xét chủ trương, đường lối của quốc gia mà lại
cộng tác với ngoại bang, với giới Việt kiều chống cộng, và cộng đồng có thù hận
với chế độ, cho nên rất dễ bị họ lừa phỉnh để phục vụ những mục tiêu đen tối,
có hại cho dân tộc. Hành vi của các anh là làm tay sai cho ngoại bang, phục vụ
cho lợi ích của nước ngoài, và lợi ích của nhóm thù hận, chứ không phải cho lợi
ích của toàn dân tộc.
6. Theo đuổi đường lối đấu tranh sai lầm, không được lòng dân:
Ngày xưa, nhà tù thời Pháp, Mỹ vô cùng dã man. Chúng đầy đoạ những người kháng
chiến bằng cực hình tra tấn. Thậm chí bức hại cả người thân của họ. Vậy mà vẫn
có hàng triệu người đi theo cách mạng, hàng triệu người khác bất chấp nguy hiểm
hăng hái ủng hộ, che dấu những người kháng chiến. Nhiều nhân sĩ, trí thức thành
đạt cũng từ bỏ sự nghiệp, phú quý vinh hoa ở hải ngoại để về nước theo kháng
chiến, chấp nhận mọi hi sinh, gian khổ. Nhà tù ngày nay chả thấm vào đâu so với
ngày xưa. Vậy mà chỉ có lèo tèo một nhúm vài trăm người (hầu hết tư duy sơ sài
và thanh niên mới lớn) tham gia đấu tranh dân chủ.
Nguyên nhân là do thời Pháp, Mỹ, người Việt có lý tưởng cao đẹp là giành lại độc
lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước. Còn ngày nay, các anh nghe giới
chính trị phương tây, Việt kiều chống cộng, và đám có thù hận với chế độ, tuyên
truyền đấu tranh dân chủ, nhưng không đủ kiến thức để phán xét con đường ấy có
phù hợp với dân tộc hay không. Hơn nữa, tự do, dân chủ không phải là những nhu
cầu quan trọng nhất của mỗi cá nhân (xem sơ đồ Maslow). Thế nên, chỉ có lèo tèo
một nhúm người chất lượng kém theo đuổi con đường đó. Chưa kể, nội bộ cộng đồng
đối lập rối ren, triết lý yếu kém dẫn đến sự tan rã tất yếu. (Xin mời xem bài
viết của tôi: “Vì sao phong trào đối kháng thất bại? Công việc gì cũng cần có
người tài và triết lý đúng đắn”[2]).
7. Ảo tưởng về vai trò đấu tranh vì dân tộc và phản biện xã hội của cộng đồng đối
lập:
Không phải mọi phong trào, tổ chức đối lập đều có lợi cho quốc gia. Chúng ta biết
rõ các tổ chức như IS, Taliban, Polpot đã gây hại như thế nào. Kể từ khi Pháp
xâm lược, sau hơn 100 năm dân tộc ta mới giành được toàn vẹn lãnh thổ, sạch
bóng ngoại xâm. Đã có 1.2 liệt sĩ, vài triệu thương binh, 9.2 triệu người có
công với cách mạng. Nếu tính cả thân quyến, những người mà công danh, sự nghiệp
thăng tiến cùng chế độ thì tổng cộng có đến vài chục triệu người gắn bó với chế
độ. Ngoài ra phải tính đến hàng chục triệu người tự hào về những thành tích
trong chiến tranh của dân tộc. Trong khi đó, cộng đồng đối lập hiểu biết rất
kém về quản trị nhà nước, tư duy giống hệt giới chống cộng hải ngoại (phủ nhận
sạch trơn chủ nghĩa cộng sản, bôi nhọ các chiến thắng của dân tộc do đảng lãnh
đạo, phỉ báng các lãnh tụ cộng sản có công với nước, xúc phạm bộ đội, công an,
bôi bẩn mọi thành tựu của chế độ). Vậy thì làm sao có thể được lòng dân? Họ chỉ
đáng được coi là đám chửi thuê cho Bolsa. Cộng đồng đó lụn bại là tất yếu.
Cũng không nên hoang tưởng về vai trò phản biện xã hội của cộng đồng đối lập. Để
phản biện hiệu quả các vấn đề chính trị, xã hội quan trọng thì phải có trình độ
nhất định về quản trị nhà nước. Thế nhưng cộng đồng đối lập hầu hết hiểu biết rất
kém. Chưa kể, họ bị giới chính trị gia phương tây và Việt kiều chống cộng giật
dây, nhồi sọ, dẫn đến phỉ báng các giá trị của dân tộc, vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, thì làm sao có thể thuyết phục chính quyền và người dân. Trên thực
tế, những người đấy không đủ trình độ để đấu tranh cho dân tộc hay phản biện xã
hội. Sự tồn tại của họ là lợi bất cập hại. Hiện giờ, có hàng triệu người khác vẫn
đang tích cực phản biện xã hội, mặc dù họ không chống chính quyền. (Xin mời xem
bài viết của tôi: “Lề trái định chiếm đoạt thuật ngữ “phản biện xã hội” của
nhân dân”[3]).
Một
số người đề cao việc thực thi quyền tự do của công dân. Tuy nhiên, cộng đồng đối
lập VN chỉ là một nhóm bệnh hoạn, không có khả năng phục vụ lợi ích của dân tộc,
chẳng hơn gì IS, Taliban. Hầu hết cộng đồng đó là những người vi phạm pháp luật,
tuyên truyền những điều có hại cho quốc gia, chứ không phải họ đang thực thi
quyền tự do chính đáng của công dân.
8. Cuối cùng, tôi khuyên anh Thức nên tập trung vào kinh doanh, sở trường của
anh. Chỉ nên coi chính trị là thú vui ngoài lề. Anh có thể tán nhảm trên mạng về
chính trị, nhưng phải cẩn trọng kẻo vi phạm pháp luật. Muốn hiểu được chính trị
ở tầm có thể cố vấn, phản biện cho quốc gia thì phải học hành bài bản về các
lĩnh vực quản trị nhà nước, ít nhất ở bậc thạc sĩ. Sau đó, phải nghiên cứu rất
nhiều, sẵn sàng cầu thị học hỏi nhiều chuyên gia các lĩnh vực đó. Nên tránh xa
giới chính trị gia, giới hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền phương tây,
và những người có hận thù với chế độ. Tránh xa những người không tôn trọng các
giá trị, thành tựu của dân tộc mà đòi đấu tranh cho dân tộc.
[1] https://danchuhoagiaikhoandung.blogspot.com/2024/09/gioi-khoa-hoc-phuong-tay-rat-tran-trong.html
[2]https://danchuhoagiaikhoandung.blogspot.com/2023/03/vi-sao-phong-trao-oi-khang-that-bai.html
[3]https://danchuhoagiaikhoandung.blogspot.com/2024/01/le-trai-inh-chiem-oat-thuat-ngu-phan.html
Về chiến tranh biên giới với Campuchia
Tôi hay đọc hồi ký của các nguyên thủ quốc gia. Những người ấy mới có tầm nhìn bao quát về đường lối, chiến lược quốc gia, có đầy đủ quyền truy cập mọi thông tin mật trao đổi giữa các nguyên thủ quốc gia, và tất cả các thông tin tình báo. Còn các dạng UVTW, bộ trưởng, tướng tá, và các loại quan chức khác ở dưới thường tầm nhìn hạn chế hạn chế hơn nhiều. Bởi vì họ đâu có được truy cập các thông tin tình báo, thông tin trao đổi mật giữa các nguyên thủ. Chưa kể họ quá bận rộn ngành của họ, trong khi để đánh giá một chủ trương, đường lối chính trị, đối ngoại của quốc gia thì cần kiến thức của nhiều ngành. Ngay cả UVBCT, không phải người nào cũng được truy cập đầy đủ thông tin.
Còn các dạng học giả lăng nhăng khác thì...thôi. Hồi 2022, đại sứ ASEAN Hoàng Anh Tuấn đã có bài than trời là Mỹ cắt giảm đầu tư đào tạo các nhà nghiên cứu chính trị cho nên gần đây rất hiếm học giả giỏi. Cũng đúng thôi. Muốn biết Bin Laden ở đâu thì tung tiền xây dựng mạng lưới tình báo ở Pakistan, Afganistan hoặc lân cận để tìm dấu vết ông ta. Hoặc muốn biết Tập hay Putin nghĩ gì thì đổ tiền mua chuộc quan chức, lãnh đạo ở Trung Quốc, Nga, đầu tư tiền vào các hệ thống vệ tinh do thám, các hệ thống nghe lén. Cách đây gần chục năm, châu Âu đã om xòm lên vì ngay cả thủ tướng Đức, Pháp cũng bị Mỹ nghe lén điện thoại. Họ có điên đâu mà đầu tư nhiều vào các ông học giả ngồi ở New York ăn tục, nói phét, đoán mò. Các học giả nói chung không được phép truy cập các thông tin mật, thông tin tình báo. Nghe họ phán các thuyết âm mưu về chính trị thế giới thì rất vui tai, nhưng chỉ nên tin vừa vừa thôi.
(Chưa nói đến các nhà báo. Một số nhà báo VN rất tệ. Họ phỏng vấn quan chức nhưng thậm chí không có băng ghi âm làm bằng chứng. Thấy các quan chức được phỏng vấn chết rồi thì họ tự ý bịa đặt, thêm mắm muối...như cái anh nhà báo gì mới đây bị bắt đi tù. Không ai xác minh được những điều anh ta viết).
Về chiến tranh Campuchia, ngoài các tài liệu của VN thì có thể đọc “Hồi ký của Sihanouk” và cuốn “Hun Sen - Nhân vật xuất chúng của Campuchia”. (Cuốn này chủ yếu là do Hun Sen trả lời, nhà báo tây ghi lại).
Theo hồi ký của Sihanouk và thông tin chính thức của nước ta thì phía VN đã rất cố gắng nhịn Polpot. VN đề nghị lập vùng phi quân sự. Mỗi bên lùi vào 10km cách biên giới làm vùng phi quân sự. Nhưng phía Polpot hung hăng không chịu. Tháng 12/1978 Polpot đem 19 sư đoàn, khoảng 90,000 quân tấn công VN, nhưng nhanh chóng bị đánh bại. Sau đó, VN bắt buộc phải ở lại truy quét và hỗ trợ chính phủ Campuchia đứng vững thêm 10 năm nữa.
Gần đây có một số nguồn tin nói rằng giai đoạn 1977-1078, VN đã có đàm phán với Mỹ về vấn đề Campuchia. Họ cho là lẽ ra VN có thể tránh được cuộc chiến đó, hoặc có thể rút quân sớm hơn. Thông tin này không biết ở đâu ra. Hay một số quan chức bị thất sủng tung tin linh tinh, giống như hồi họ tung tin về “Hội nghị Thành Đô”. Tôi nghĩ, chỉ khi nào phía VN hoặc phía Mỹ giải mật thông tin về vấn đề này thì mới đáng tin. Chưa có nguồn tin nào nói Mỹ đã giải mật thông tin về đàm phán đó. Còn đợi VN giải mật…thì sẽ còn phải đợi rất lâu.
PS: Chính trị quốc tế thì rất khác các ngành kiểu như kinh tế, y tế, môi trường. Bởi các ngành kinh tế, y tế, môi trường..., các học giả chủ yếu bàn bạc, cố vấn trên các dữ liệu công khai thôi. Họ không bàn những gì không có bằng chứng, dữ liệu. Nếu suy diễn thì cũng suy diễn trên các dữ liệu công khai, và cũng không suy diễn quá xa. Nhưng chính trị quốc tế thì khác. Những thông tin quan trọng nhất hiện nay là thông tin tình báo, thông tin mật trao đổi giữa các nguyên thủ, thông tin do thám, vệ tinh. Những thứ đấy các học giả chính trị quốc tế đâu có được biết. Cho nên những điều họ phán chủ yếu là thuyết âm mưu. Nghe cho vui thôi.
Đấy là điểm rất khác giữa chính trị quốc tế và các ngành kia. (Riêng kinh tế chính trị thì nhiều chủ đề được xếp vào nhóm ngành chính trị, bởi vì nhiều thứ không có thông tin.) Tôi làm nghiên cứu cho nên biết về sự khác biệt này, nhưng nhiều người khác thì không biết.
Dĩ nhiên hồi ký của
các nguyên thủ cũng không phải hoàn toàn là sự thật, hoặc chỉ là sự thật dưới
góc nhìn của họ, để phục vụ mục đích nào đó. Nhưng ít ra, họ được tiếp cận
nhiều thông tin hơn, và tầm nhìn bao quát hơn cấp dưới. Những thứ đáng tin cậy
nhất là các văn bản hiệp định, thư từ trên giấy trắng mực đen được lưu trữ, các
băng ghi âm, ghi hình.
Sự can thiệp của Mỹ và đại học Fulbright
Bản thân tôi cũng tin rằng Mỹ đã tham gia nhiều vụ kích động bạo loạn, đảo chính trên thế giới. Từ khoảng 1991 trở về trước, chủ nghĩa cộng sản là hiểm hoạ đối với Mỹ. Thế nên Mỹ can thiệp chính trị vào nhiều quốc gia vì mục đích là để ngăn chặn, loại trừ chủ nghĩa cộng sản (v.d., can thiệp vào Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam, Chile, Indonesia). Họ can thiệp vào Đông Nam Á theo học thuyết Domino. Tuy nhiên, từ 1991 trở lại đây, khối cộng sản tan rã. Chủ nghĩa cộng sản không còn là mối lo ngại của họ nữa. Mối quan tâm lớn nhất của họ hiện nay là duy trì vị trí dẫn đầu thế giới, không để cho Trung Quốc, Liên Xô vượt mặt. Chính vì vậy, việc can thiệp chính trị gây bạo loạn, lật đổ ở các quốc gia từ 1991 trở lại đây hầu hết là vì lý do kinh tế, để bảo vệ lợi ích kinh tế của Mỹ. Hoặc chính phủ nào không thân thiện với Mỹ thì họ cũng muốn loại bỏ để thay thế bằng một chính quyền thân thiện hơn, mở ra các cơ hội hợp tác kinh doanh, đem lại nhiều tiền cho nước Mỹ.
Nhưng bạo loạn, lật đổ không phải là con đường duy nhất để đem lại lợi ích cho Mỹ. VN hiện nay là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện của Mỹ. Thế nên nhu cầu Mỹ can thiệp gây bạo loạn, đảo chính ở VN cũng giảm mạnh. Bởi vì cho dù lật đổ được chính quyền ở VN để dựng lên một chính quyền thân Mỹ hơn thì đó vẫn phải là chính quyền độc tài lâu dài, đảm bảo đường lối thân Mỹ dù trải qua nhiều đời nguyên thủ khác nhau. Chính quyền đó phải đảm bảo đem lại nhiều lợi ích cho nước Mỹ hơn chế độ hiện nay. Điều này rất khó. Thời VNCH, vị thế của Mỹ ở VN hoàn toàn khác. Họ tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, chính quyền phải tuyệt đối tuân phục họ, thì mới đảm bảo được điều đó. Năm 1965, Mỹ đổ mấy trăm nghìn quân vào Đà Nẵng. Nhưng thủ tướng VNCH lúc bấy giờ là Phan Huy Quát thậm chí không hề được báo trước. Sau khi Mỹ đã đổ quân vào rồi, ông Quát rất muối mặt nhưng cũng đành ra lệnh cho bộ phận truyền thông chào mừng. Thời đó, Mỹ can thiệp vào VN chỉ nhằm mục đích duy nhất là chống cộng chứ không phải vì dân chủ, nhân quyền gì hết. Họ biết thừa chính quyền Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, nhưng họ làm ngơ. Chỉ đến khi chính quyền đó bị mất lòng cả dân chúng lẫn quan chức quá mức, CIA mới đành bật đèn xanh cho quân đội đảo chính. Nhưng đến thời Nguyễn Văn Thiệu, họ cũng chỉ quan tâm nhất là ổn định chính trị, chứ không cần dân chủ dân mèo gì hết. (Chẳng may, một ông không thích Mỹ, hoặc thân cộng sản được dân bầu làm tổng thống thì rất phiền). Đấy là lý do Mỹ ủng hộ ông Thiệu là ứng viên tổng thống duy nhất, độc diễn tranh cử, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1971. Nhưng thời đấy họ không kiếm được lợi ích kinh tế ở VN mà ngược lại, tốn rất nhiều tiền để biến Miền nam VN trở thành một tiền đồn chống cộng của Mỹ.
Nhưng có một con đường thứ hai để tăng cường lợi ích kinh tế của Mỹ ở VN là thông qua ngoại giao. Nghĩa là tạo ra những dự án để hai bên Mỹ-Việt cùng có lợi. Đại học Fulbright là một dự án như thế. Đội ngũ giảng viên của đại học Fulbright hầu hết đều tốt nghiệp từ các trường uy tín cao trên thế giới. Cộng thêm phương pháp giảng dạy hiện đại. Thế nên, VN được hưởng lợi từ việc nhiều sinh viên khá giỏi được đào tạo trong môi trường chất lượng cao. Cái lợi thứ hai là hàng năm đại học Fulbright vẫn làm cầu nối tổ chức đối thoại/phản biện cấp quốc gia với các lãnh đạo VN về các chính sách kinh tế, xã hội, môi trường.v.v. Đoàn VN thường do một Uỷ Viên Bộ Chính Trị hoặc một phó thủ tướng dẫn đầu cùng với lãnh đạo của các bộ ngành. Phía Mỹ là các giáo sư và các chuyên gia hàng đầu. Phía Mỹ sẽ phản biện, góp ý với đoàn VN về các chính sách đó. Điều đấy giúp VN có các các chính sách tốt hơn, phù hợp hơn với các tiêu chuẩn quốc tế. Cái lợi thứ ba là các giảng viên đại học Fulbright vẫn thường xuyên cố vấn/phản biện chính sách cho các bộ, ngành ở VN. Phía Mỹ cũng được hưởng nhiều lợi từ trường Fulbright (i) Đào tạo ra một nhóm chuyên gia, chuyên viên thiện cảm, yêu quý nước Mỹ (đào tạo cả bậc đại học và cao học); (ii) Duy trì mối quan hệ với giới lãnh đạo cao cấp của VN (thông qua đối thoại cao cấp) và mối quan hệ thường xuyên với các bộ ngành (từ quan hệ cố vấn chính sách của các giảng viên ĐH Fulbright) để thúc đẩy những dự án hợp tác kinh doanh ở VN và các mục đích khác; (iii) Thu hút các những sinh viên khá giỏi sau khi tốt nghiệp sang Mỹ làm việc.
Hiện giờ Mỹ có tài trợ cho các hội nhóm kích động bạo loạn, gây rối ở VN hay không? Hiện nay các nước xung quanh VN (Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia, Đài Loan, Úc) vẫn có khá nhiều những hội nhóm như vậy. Thậm chí có cả chi nhánh của các đảng phái chống chế độ, có trụ sở chính ở Mỹ, ở các nước đó. Cũng có thể CIA vẫn có những tài trợ, cố vấn cho các hội nhóm đó.
Tuy nhiên các bạn cần phân biệt: (i) Những người tham gia các
hội nhóm bạo loạn, lật đổ đó là những nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhân
quyền. Họ có các kỹ năng phủ hợp để với công việc kích động bạo loạn, lật đổ.
(ii) Những giảng viên đại học Fulbright là những người giỏi lý thuyết chuyên
môn của họ. Việc họ hỗ trợ tăng cường lợi ích kinh tế Mỹ theo con đường thứ hai
có lợi hơn nhiều. Đại học Fulbright đặt trên lãnh thổ VN, phải tuân theo pháp
luật VN. Đấy là chưa kể, không ai có thể đảm bảo các phòng học, phòng hội thảo
trong trường không bị đặt thiết bị nghe lén ở một thời điểm nào đó. Kỹ thuật
nghe lén hiện nay đã cho phép đặt máy nghe từ bên ngoài trường, cách trường vài
chục mét vẫn nghe được rất rõ. Làm sao có thể kích động sinh viên bạo loạn
trong trường được?
Nói một cách vắn tắt, Mỹ làm điều gì xấu cho các quốc gia khác thì thường bí mật, thông qua các tổ chức tư nhân chứ họ không “vỗ mặt” nước khác, thông qua các dự án ngoại giao kiều như đại học Fulbright.
Đừng so sánh với các quốc gia khác đã từng xảy ra bạo loạn, đảo chính có nhiều sinh viên tham gia. Các nước đó được tự do lập đảng phái, hội nhóm chính trị. Việc tuyên truyền chính trị đối lập, việc sinh viên tổ chức hội họp, bàn bạc kế hoạch biểu tình trong trường học không phải là bất hợp pháp. Môi trường như vậy quá khác với VN. Hơn nữa, các đại học ở đấy không có những chương trình đối thoại cao cấp như ở VN để tăng cường lợi ích của Mỹ thông qua con đường đối thoại với các lãnh đạo cao cấp.
+ FB Huỳnh Thế Du, cựu giảng viên ĐH Fulbright, giải thích rằng
bộ phim Chiến Tranh Việt Nam mà sinh viên ĐH Fulbright được xem năm ngoái thực
ra một bộ phim nói về tính phi nghĩa và sai lầm của phía Mỹ khi can thiệp quân
sự vào VN. Đặt trong bối cảnh ấy thì thấy phát biểu của bà Thuỷ cũng bình
thường. Cán bộ, giảng viên đại học Fulbright được trả lương cao, cho nên thường
sẽ cố gắng vun đắp cho hình ảnh của nước Mỹ, người Mỹ trở nên thân thiện, tốt
đẹp hơn đối với người dân Việt. Tuy nhiên, nhiều người mang sẵn định kiến trong
đầu và chẳng hiểu gì về chính trị đối lập thì tưởng tượng ra đủ thứ rất nghiêm
trọng.
Đại học Fulbright
Không biết nhân vật nào chỉ đạo chiến dịch tấn công đại học Fulbright. Người này hình như không hiểu gì về chính trị đối lập nhưng bóng gió liên hệ trường này với cách mạng màu. Đại học Fulbright là trường do Bộ Giáo dục VN quản lý [1]. Trường phải tuân thủ Nghị định 86/2018/NĐ-CP, trong đó Điều 37 viết rằng: “Chương trình giáo dục thực hiện tại cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài phải thể hiện mục tiêu giáo dục, không có nội dung gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng; không truyền bá tôn giáo, xuyên tạc lịch sử; không ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và phải bảo đảm điều kiện liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo.”
Nghĩa là về cơ bản, trường sẽ không dám làm gì vi phạm Điều 37 của nghị định đó. Trường đại học là nơi đào tạo kiến thức chuyên môn, hơn nữa đặt trên lãnh thổ VN thì ai dám làm gì? Những chuyện như clip năm ngoái nói về lính Mỹ chỉ là sơ xuất rất nhỏ, hiếm khi xảy ra.
Trong sứ mệnh của trường có trích dẫn lời của TNS Fulbright: “Chúng ta phải dám nghĩ những điều thường bị coi là không tưởng. Chúng ta phải dám học cách khám phá mọi khả năng và giới hạn mà chúng ta đang đối mặt trong một thế giới đầy phức tạp và biến động không ngừng.” Chính vì thế, khẩu hiệu khi tốt nghiệp của trường này là Không sợ hãi.
Thật ra, các trang facebook, trang web của lề trái, facebook đám bất mãn chế độ cả trong và ngoài nước còn nguy hiểm gấp 1 triệu lần đại học Fulbright. Thử hình dung, sinh viên đại học Fulbright và các đại học khác có facebook trên mạng, hàng ngày đọc tin tức lề trái, giao lưu với đám bất mãn đấy thì ảnh hưởng đến mức độ nào. Trong khi đấy, phản biện của lề phải phần lớn là ngô nghê, chỉ để thuyết phục những người tuy sơ sài, không đáp ứng được những thắc mắc của độc giả có tư duy tốt.
Tính theo
định lượng, mỗi ngày các trang lề trái, facebook của đám bất mãn chế độ xả vài
trăm tin tức/bài phân tích độc hại. Mỗi năm hàng triệu tin tức/bài phân tích độc
hại. Trong khi đó những phốt của đại học Fulbright tính đến nay mới chỉ đếm
trên đầu ngón tay. Có lẽ trung bình 1 năm chưa đến 1 vụ. Vậy thì cái nào gây hại
lớn hơn? Vụ không mang cờ VN khi tốt nghiệp chỉ là sơ xuất chứ không phải nhồi
nhét tư tưởng gì cho sinh viên cả.
SUY DIỄN QUÁ ĐÀ VỀ TRƯỜNG FULBRIGHT
Tự dưng lại có một đám người không hiểu gì về chính trị đối lập suy diễn đủ thứ về trường Fulbright. Suy diễn về sứ mệnh của trường: "Sứ mệnh của Đại học Fulbright Việt Nam là ươm dưỡng và truyền cảm hứng cho những thế hệ lãnh đạo mới". Suy diễn về khẩu hiệu "Fearless - Không sợ hãi". Cứ như thể đấy là nơi đào tạo sinh viên bạo loạn.
Hiện giờ các tour tổ chức cho trẻ em đi Mỹ học vài tuần dịp tết đều quảng cáo là khoá học đào tạo kỹ năng "nhà lãnh đạo tương lai". Các trường đại học nói về sứ mệnh của trường thật độc đáo để quảng cáo thu hút sinh viên, tạo danh tiếng cũng là hết sức bình thường.
Nhưng quý vị suy diễn thì cũng nên để thời gian suy ngẫm lâu lâu một chút. Bằng cơ chế nào để nhồi nhét tư tưởng bạo loạn vào đầu sinh viên, khi mà trường đặt trên lãnh thổ VN? Khi mà trường phải cam kết tuân thủ Điều 37, Nghị định 86/2018/NĐ-CP? Nếu không chỉ ra được cơ chế nào thì không nên tin vào những chuyện hoang đường như vậy.
Không có trường đại học nào trên thế giới là nơi đào tạo bạo
loạn. Nhưng tại sao lại có những sinh viên tổ chức bạo loạn? Vì họ đọc thông
tin ở bên ngoài trường: trên Internet, mạng xã hội, từ các cá nhân bất mãn chế
độ, từ các hội nhóm nổi loạn bên ngoài trường.
+ Từ thời các lãnh đạo đảng đầu tiên ở VN còn là học sinh/sinh
viên, họ học hỏi chính trị từ những bài báo, bản viết tay chuyền cho nhau, từ
gặp gỡ các sĩ phu bất mãn ở bên ngoài trường.
+ Thời chống Mỹ, sinh viên học hỏi về biểu tình, bạo loạn ở đâu?
Từ các tờ báo, các hội sinh viên ở bên ngoài, từ những người của mặt trận giải
phóng.
+ Sinh viên các đại học Trung Quốc tạo ra vụ Thiên An Môn đã học
hỏi các thông tin về biểu tình, bạo loạn ở đâu. Đương nhiên không phải trên
giảng đường. Không trường nào ở Trung Quốc dạy họ biểu tình cả. Họ học hỏi
những thứ đó là do dưới thời Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương báo chí được tự do
chỉ trích chính quyền, giáo sư đại học được tự do viết bài kích động. Sinh viên
được thoải mái thành lập nhóm chống đối, thoải mái bàn bạc kế hoạch biểu tình.
+ Từ 1975 đến nay, ở VN có hàng nghìn người trở thành bất đồng
chính kiến. Trong nhóm 72 người ký văn bản đòi đa nguyên đa đảng, có 13 người
học ở Liên Xô. Còn lại học ở VN, Trung Quốc, Đông Âu. Chả ai liên quan gì đến
Fulbright. Số người bất mãn chế độ nhưng ít khi thể hiện ở VN hiện nay là hàng
triệu người, nhưng có mấy ai ở trường Fulbright. Họ học hỏi những tư tưởng bất
mãn đấy ở đâu: từ báo chí lề trái, từ facebook của các nhân vật bất mãn, thù
hận.
+ Tổng kết nguyên nhân vì sao Liên Xô sụp đổ: Không có nguyên
nhân nào xuất phát từ việc giảng dạy trong trường đại học.
Không phải phi lý những nơi đào tạo đối lập trên thế giới đều phải thành lập các khoá học riêng, do những giảng viên là giới hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền.
Để một người trở thành bất đồng chính kiến hay có tư tưởng bạo
loạn thì người đó phải đọc vài chục đến hàng trăm bài viết có nội dung bôi xấu
chế độ, và phải có cơ hội trao đổi với những người đồng quan điểm.
Đa số giảng viên đại học Fulbright hiện nay vẫn là những người Việt. Hầu hết các giảng viên trường này là tiến sĩ tốt nghiệp trường danh tiếng ra. Quý vị nghĩ rằng các giảng viên người Việt đó không yêu nước bằng các quý vị? Nếu chẳng may có bài giảng nào đó có vấn đề gì đó các giảng viên, sinh viên không ngầm báo cho công an?
Cứ nghĩ rằng chỉ mỗi mình mình yêu nước thì nguy hiểm lắm.
Tôi đã giải thích chương trình YSEALI độc lập với trường Fulbright. Học viên khác nhau, giảng viên khác nhau. Chỉ cùng địa điểm, bởi YSEALI do Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ.
Từ 2017, đã có 2 người tham gia khoá học ngắn hạn của YSEALI đi tù vì chống chế độ (THP và PKK). Ít nhất một người nữa cũng trở thành bất đồng chính kiến (có đi tù hay không thì không rõ). Thế nhưng năm 2020, chính phủ VN vẫn đồng ý cho phép Bộ Ngoại Giao Mỹ đầu tư 5 triệu $ để thành lập viện YSEALI đặt trong khuôn viên đại học Fulbright. Đương nhiên chính phủ không thấy viện đó nguy hại như các vị tưởng tượng cho nên họ mới cho phép đặt như vậy. Thực chất viện đó chỉ đào tạo các kỹ năng lãnh đạo, không có gì độc hại, cũng chẳng kích động gì. Hơn nữa, có thể chính quyền tính toán rằng đồng ý cho thành lập viện để quản lý dễ hơn. Những cựu sinh viên YSEALI đó trở thành bất mãn, chống chế độ là do đọc tin lề trái, tiếp xúc đám người bất mãn, thù hận chế độ ở bên ngoài trường, chứ không phải vì họ học chương trình đó.
Quý vị nào còn bức xúc thì nên chất vấn chính quyền về YSEALI. Nếu gọi là "nguy hiểm", với "kết quả" như vậy YSEALI nguy hiểm hơn FULBRIGHT nhiều. Còn nếu không hiểu tại sao chính quyền làm như vậy thì đừng lo lắng về trường Fulbright cho mệt.
Việc phản đối Bob Kerrey là hiệu trưởng, phản đối chiếu phim "Chiến tranh VN", phản đối phát ngôn của bà Thuỷ về lính Mỹ, phản đối sinh viên tốt nghiệp diễu hành chỉ mang cờ Fulbright, không mang cờ tổ quốc đều là cần thiết. Nhưng không nên suy diễn quá xa. Bởi vì để biến một người trở thành bất đồng chính kiến hay có tư tưởng tụ tập biểu tình, nổi loạn cần rất nhiều thứ: được đọc rất nhiều bài báo có tư tưởng chống đối, có nhóm đồng chí hướng với nhau cùng trao đổi. Nguy cơ của sinh viên Fulbright nổi loạn chẳng hơn gì sinh viên các trường đại học khác ở VN.
PS: Điều 37, Nghị định 86/2018/NĐ-CP viết rằng: “Chương trình
giáo dục thực hiện tại cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài phải thể hiện
mục tiêu giáo dục, không có nội dung gây phương hại đến quốc phòng, an ninh
quốc gia, lợi ích cộng đồng; không truyền bá tôn giáo, xuyên tạc lịch sử; không
ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và phải bảo đảm
điều kiện liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo.”
CHƯƠNG TRÌNH YSEALI
YSEALI là khoá đào tạo ngắn hạn về kỹ năng lãnh đạo. Chương trình này đặt cơ sở trong khuôn viên đại học Fulbright bởi vì do Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ. Tuy nhiên chương trình này hoàn toàn độc lập với đại học Fulbright bởi vì có chế độ tuyển sinh riêng, đội ngũ giảng viên riêng. Những người học YSEALI không phải là học viên Fulbright. Nhiều cán bộ, nhân viên viên các cơ quan nhà nước và các đoàn thể xã hội cũng theo học chương trình này. Về cơ bản, nội dung chương trình này cũng không có vấn đề gì. Thế nhưng đã từng có 3 học viên theo học chương trình này trở thành bất đồng chính kiến, phải đi tù. Lý do chủ yếu là vì nhóm chuyên tổ chức bạo loạn ở Hồng Kông (Hoàng Chi Phong, Chu Đình,…) cũng từng là học viên của chương trình này ở Hồng Kông. Có thể 3 học viên VN sau khi tốt nghiệp khoá học này đọc tin lề trái nhiều và bị kích động bởi nhóm bạo loạn Hồng Kông cho nên mới như vậy. Tuy nhiên, hiện nay chính phủ Trung Quốc thay đổi luật pháp, không cho phép các công dân được tự do thành lập đảng đối lập, tổ chức đối lập nữa. Chính vì vậy nhóm nổi loạn ở Hồng Kông đã phải giải tán, nhiều người ra nước ngoài tị nạn. Hơn nữa ở VN có mấy người đi tù thì những người khác sẽ phải suy nghĩ.
Hiện nay, ở VN, sở dĩ các cơ quan truyền thông chính thống vẫn chưa có ý kiến gì về YSEALI có lẽ là vì bản thân chương trình của khoá học này không có vấn đề gì. Những người dạy cũng không kích động học viên điều gì. Các kỹ năng lãnh đạo trong khoá học cũng rất hữu ích để nâng cấp năng lực lãnh đạo của những người trẻ trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội ở VN. VN cũng cần học hỏi các kỹ năng lãnh đạo tiên tiến của thế giới. Nếu có vấn đề gì thì báo chí đồng loạt lên án chương trình này. Nếu nghiêm trọng thì chính quyền sẽ yêu cầu đóng cửa khoá học.
Nói vắn tắt, học tập chuyên môn luôn là điều tốt. Những trang lề
trái, những nhân vật bất mãn chế độ trên facebook còn nguy hiếm gấp 1 triệu lần
đại học Fubright. Cần phân biệt đại học Fulbright với chương trình YSEALI.
Những người chủ trương tấn công đại học Fulbright có lẽ không hiểu gì về chính
trị đối lập. Họ nên tập trung nguồn lực để phản hồi những luận điệu trên mạng
thay vì chĩa mũi nhọn vào đại học Fulbright. Mỗi lo ngại lớn nhất hiện nay của
VN là nhóm dân tộc thiểu số Khmer Krom và các dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên
và ở miền núi phía bắc. Vừa rồi, ở Campuchia đã xảy ra bạo loạn lớn. Họ cũng cố
gắng kích động cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia và Việt Nam. Những kẻ nổi loạn
tuyên truyền chống VN và đòi lại đất đai của đế chế Campuchia ngày xưa để kích
động công chúng.
CÔ LIÊN HẰNG VÀ ĐẠI HỌC FULBRIGHT
Vừa rồi, tôi có xem một clip trên mạng nói về việc GS Nguyễn Thị Liên Hằng, một giáo sư sử học của đại học Columbia, đã từng có một số nghiên cứu với nhiều quan điểm lật sử về chiến tranh VN 1955-1975. Hiện tại cô Liên Hằng là thành viên của Hội đồng Tín thác của đại học Fulbright. Clip đó nói rằng chúng ta đã "rước giặc vào nhà", rằng cô Liên Hằng sẽ đào tạo ra hàng trăm sinh viên đại học Fulbright theo quan điểm lật sử.
Cô Liên Hằng là một giáo sư giỏi, người đã được đại học Harvard cân nhắc thay thế GS Hồ Tài Huệ Tâm giữ ghế giáo sư sử học VN duy nhất ở đại học Harvard sau khi bà Tâm nghỉ hưu. Điều quan trọng chúng ta cần nhớ là cô Liên Hằng là một người Mỹ, mang quốc tịch Mỹ. Giống như hầu hết những người Mỹ khác, cô phục vụ lợi ích của nước Mỹ chứ không phải lợi ích của VN. Quan điểm của đại đa số học giả Mỹ về chiến tranh Nam-Bắc hoàn toàn ngược với VN: những người Mỹ tham chiến được coi là anh hùng, còn VN thì coi họ là giặc. Ngược lại, các học giả Mỹ thường gọi bộ đội ta là giặc, là quân thù.
Bất kể gia đình cô
Liên Hằng có dính dáng gì đến quân cán chính VNCH hay không, chỉ riêng việc cô
ấy là người Mỹ, đã cho thấy khả năng cao cô ấy sẽ có quan điểm giống đa số
những người Mỹ yêu nước khác. Chúng ta không nên kỳ vọng rằng những người Mỹ
khác làm việc ở đại học Fulbright không có quan điểm tương tự. Có thể một lúc
nào đó, độc giả sẽ phát hiện ra các giảng viên Mỹ khác của trường Fulbright có
những phát ngôn/bài viết chướng tai như vậy về chiến tranh VN. Họ là người Mỹ.
Đối với nước Mỹ, quan điểm như vậy là hết sức bình thường.
Điều quan trọng là cô Liên Hằng chỉ là thành viên Hội đồng Tín thác (một dạng giống như Hội đồng Quản trị). Cô ấy không trực tiếp tham gia giảng dạy. Nếu cô Hằng hoặc một giảng viên người Mỹ khác giảng dạy một học phần nào đó hoặc tổ chức một hội thảo ở đại học Fulbright có nội dung chống lại quan điểm chính thống của nhà nước VN thì mới cần phải xem lại. Có thể yêu cầu cắt bỏ nội dung đó, từ chối cho họ tổ chức hội thảo, hoặc yêu cầu học phần đó do người Việt giảng dạy. Theo như tôi biết, đại học Fulbright hiện nay vẫn dạy triết học Marx-Lenin cho bậc cao học, (không biết có dạy bậc đại học không). GS Vũ Ngọc Hoàng, nguyên phó ban tuyên giáo, là giảng viên chính. Nhiều học phần khác về luật, chính trị, kinh tế, xã hội cũng do người Việt giảng dạy.
Bộ giáo dục cũng có thể tiến hành khảo sát ngẫu nhiên mỗi năm 1 lần các sinh viên đại học, cao học của đại học Fulbright xem các học viên đó có được dạy những gì trái với chủ trương, chính sách của nhà nước hay không. Nếu có thì cần chấn chỉnh ngay. Tôi nghĩ là đến giờ vẫn không có những nội dung như vậy đâu, bởi nếu có thì chắc chắn sẽ có những sinh viên phản ánh với công an.
Cách đây mấy năm, đại học Fulbright đã phải huỷ bỏ sự kiện đại sứ Ted Osius giới thiệu cuốn hồi ký của ông ta có một số nội dung "không phù hợp" với quan điểm của nhà nước VN. Ngay sau khi cuốn sách được phát hành, đã có một số người lên án một số đoạn. Thế nên khi trường Fulbright thông báo tổ chức buổi giới thiệu sách, chính quyền liền có ý kiến, buộc họ phải hủy buổi đó.
Nếu chỉ vì cô Liên Hằng đã từng có những nghiên cứu có quan điểm lật sử mà không cho phép cô ấy tham gia quản lý đại học Fulbright thì tôi e rằng sẽ phải cấm cửa hầu hết những người Mỹ khác làm việc cho đại học này. Không tin thì cứ thử hỏi quan điểm của họ về cuộc chiến Bắc-Nam.
[1]https://lawnet.vn/giao-duc/truong-dai-hoc-fulbright-viet-nam-chiu-su-quan-ly-nhu-the-nao-khi-hoat-dong-tai-viet-nam-5652.html
Đại học Fulbright, học bổng Fulbright và chính trị đối lập
Mấy hôm nay, từ sau vụ đảo chính ở Bangladesh, dư luận lại sôi sục, lo ngại về cách mạng mầu. Một số người chĩa mũi nhọn, tuyên truyền học bổng Fulbright là nguồn gốc bạo loạn, và reo rắc ác cảm về đại học Fulbright VN. Một vài người hỏi tôi về bài viết của tôi về đại học Fulbright năm 2016. Đợt ấy, tôi phản đối Bob Kerrey và cũng chưa tìm hiểu nhiều lắm về chính trị đối lập cho nên đã viết một số đoạn khá gay gắt. Hôm nay, tôi muốn có một vài lời giải thích.
1. Việc cử người du học theo học bổng Fulbright và thành lập đại học Fulbright ở VN là một chủ trương lớn của chính phủ. Học bổng Fulbright đã giúp đỡ đào tạo hàng nghìn cán bộ trẻ cho VN từ hơn 30 năm nay. Trường FETP (tiền thân của ĐH Fulbright) và đại học Fulbright đã đào tạo rất nhiều chuyên gia, chuyên viên chính sách công cho VN để phục vụ nhu cầu Đổi Mới. Bắt đầu từ năm nay, học bổng Fulbight sẽ tài trợ cho các chương trình thạc sĩ về khoa học công nghệ ở Mỹ, thay vì chỉ tài trợ cho các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn như trước đây. Tôi cho rằng đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của chính phủ.
2. Đã có một số Uỷ viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng, nhiều bộ
trưởng, thứ trưởng, cục/vụ trưởng và phó, và nhiều lãnh đạo các cấp khác của VN
du học Mỹ bằng học bổng Fulbright. Hàng năm đại học Fulbright vẫn làm cầu nối
để tổ chức đối thoại và phản biện cao cấp giữa chính phủ VN và các chuyên gia
hàng đầu của Mỹ, đặc biệt là về lĩnh vực kinh tế và chính sách. Nhiều người
từng nhận học bổng Fulbright nhưng đã chống lại việc Bob Kerrey làm chủ tịch
đại học Fulbright, hoặc chỉ trích Mỹ trong một số vấn đề chính trị.
II. MỘT SỐ SỰ THẬT VỀ CÁCH MẠNG MẦU
3. 100% các nước đề xảy ra cách mạng mầu là do họ cho phép các đảng đối lập, tổ chức/nhóm chính trị đối lập, và xã hội dân sự tự do hoạt động. Vụ Thiên An Môn xảy ra ở thời kỳ Triệu Tử Dương là tổng bí thư. Ông Triệu đã không ngăn cản ngay từ đầu các nhóm sinh viên tổ chức bạo loạn, cộng thêm việc để cho các giáo sư thoải mái tuyên truyền, kích động. Nếu không thì đã không có sự kiện ấy. Từ sau 1989, chính phủ Trung Quốc rút kinh nghiệm cho nên không xảy ra những vụ tương tự như vậy nữa.
4. Nhiều người tuyên truyền rằng các cuộc bạo loạn dẫn đến đảo chính đều do sinh viên lãnh đạo. Nhìn lại lịch sử, sự kiện Thiên An Môn ở Trung Quốc, đảo chính ở Đông Âu cuối 1980s, mùa xuân Ả rập 2011-2013, Hồng Kông 2014-2019, Miến Điện 2021, Bangladesh 2024 đúng là có sự tham gia đông đảo của sinh viên. Nhiều sinh viên là những người lãnh đạo, tổ chức chính.
5. Nhưng VN thì khác. Từ 2005 đến nay, hầu như tất cả những cuộc tụ tập, biểu tình, bạo loạn ở VN (v.d., chống Trung Quốc, bảo vệ môi trường, cây xanh, chống xả thải Formosa, chống Luật Đặc Khu, chống luật An Ninh Mạng, vụ Đồng Tâm…) đến nay đều do những người đã tốt nghiệp tổ chức, dẫn dắt. Rất hiếm sinh viên tham gia.
Hầu hết những người đứng ra tổ chức, dẫn dắt các cuộc biểu tình, bạo loạn ở VN không phải là những người bất đồng chính kiến, cũng không được đào tạo về đấu tranh dân chủ, xã hội dân sự ở nước ngoài. Họ là những người bình thường, nhưng có tố chất lãnh đạo/dẫn dắt đám đông. Khi chính quyền không khắt khe thì họ sẽ tranh thủ tổ chức một vài vụ tụ tập để đấu tranh vì cái gì đó. Nhưng khi chính quyền cấm đoán thì họ nằm im. Nguyên nhân là do VN ngăn chặn và trừng phạt mọi mầm mống tổ chức/hội nhóm chính trị đối lập/xã hội dân sự. Thế nên hầu hết những người có năng lực tổ chức/dẫn dắt đám đông ngại dính đến chính trị đối lập. Trong khi đó, hầu hết những người bất đồng chính kiến là những người ngông cuồng, tham gia các khoá học đào tạo về chính trị đối lập ở hải ngoại, nhưng không có năng khiếu lãnh đạo/tổ chức. Việc nhà trường cấm đoán cũng khiến sinh viên ngại dính dáng đến chính trị. Ở các nước từng xảy ra cách mạng mầu thì khác. Do các đảng phái/tổ chức/hội nhóm đối lập được tự do hoạt động cho nên những người có năng khiếu lãnh đạo/dẫn dắt biểu tình, bạo loạn cũng đồng thời là những người hoạt động động chính trị đối lập. Họ tự do tham gia các khoá đào lạo về dân chủ, nhân quyền, xã hội dân sự ở hải ngoại. Họ có quan hệ mật thiết với giới chính trị hải ngoại và được đám này hỗ trợ cả về tài chính và xây dựng các kế hoạch hành động.
6. Cần phân biệt tụ tập/biểu tình vì những “lợi ích trực tiếp” và những “lợi ích không trực tiếp”. Chính quyền VN thường không cản trở người dân tụ tập đấu tranh vì những “lợi ích trực tiếp”, chẳng hạn những người bị mất nhà cửa oan ức, những người mua trái phiếu của SCB, những người bị ô nhiễm vì sống gần bãi rác Nam Sơn, công nhân đình công đòi tăng lương, cải thiện môi trường làm việc. Chính quyền chỉ ngăn cản những người tụ tập/biểu tình nhân danh “lợi ích không trực tiếp”, ví dụ: đấu tranh chống Trung Quốc, chống ô nhiễm Formosa, chống chặt cây, bảo vệ môi trường Tam Đảo, chống luật Đặc Khu, luật An Ninh Mạng…hoặc những người kích động người khác tụ tập đấu tranh. Trong vụ Đồng Tâm, ban đầu người dân đấu tranh vì lợi ích trực tiếp (giữ đất đai mà họ cho là của họ). Nhưng sau đó họ đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng khi bắt giữ 38 cán bộ, chiến sĩ công an. Hai năm sau, họ nghe kẻ xấu kích động nên vi phạm nghiêm trọng hơn: lập làng kháng chiến, tích trữ vũ khí thô sơ để tấn công công an.
7. Trước nay, nhiều tờ báo của công an đã cảnh báo thanh niên không tham gia các khoá học ngắn hạn đào tạo về dân chủ hoá, tự do hoá, nhân quyền, xã hội dân sự…do các nhóm chính trị hải ngoại tổ chức. Giảng viên các khoá học đó là những người hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền, thậm chí những người có thù oán với chế độ. Các khoá học đó không trang bị kiến thức cho học viên về lý thuyết tổ chức và quản trị nhà nước mà chỉ nhồi sọ học viên rằng “dân chủ là quan trọng nhất”, “độc tài luôn xấu xa”, “xã hội dân sự luôn tốt đẹp và cần thiết”, và những hiểu biết méo mó về nhân quyền. Họ hướng dẫn học viên tiến hành các hoạt động đòi tự do, xây dựng xã hội dân sự, đấu tranh nhân quyền, ca ngợi những nhân vật gây bạo loạn nổi tiếng thế giới, và hứa hẹn tài trợ để học viên thực hiện những điều đó sau khi trở về. Hầu hết các khoá học đó tổ chức ở các nước gần VN (v.d., Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Đài Loan) chứ không phải ở Mỹ. Lý do là để đỡ tốn kém vé máy bay, không cần visa hoặc xin visa dễ dàng. Đối tượng tham gia những khoá học đó là những người hứng thú với chính trị đối lập, xã hội dân sự.
8. Trong khi đó, các khoá học do học bổng Fulbright tài trợ và các khoá học của đại học Fulbright là các khoá bậc đại học, cao học, tiến sĩ, tu nghiệp ngắn hạn về chuyên môn khoa học, công nghệ, quản lý, xã hội. Các khoá học đó giống như tất cả các khoá học nghiêm túc khác ở phương tây. Học bổng Fulbright chỉ cung cấp tiền. Người được học bổng phải tự tìm các khoá học ở Mỹ, nơi họ sẽ cùng học với sinh viên Mỹ, và sinh viên nhiều quốc gia khác. Hầu hết các giảng viên là các nhà khoa học chứ không phải là những người hoạt động chính trị/nhân quyền. Họ dạy đầy đủ về lý thuyết, hướng dẫn sinh viên tự nghiên cứu tài liệu, tư duy đa chiều. Chính nhờ vậy sinh viên có hiểu biết sâu, toàn diện về một chuyên môn nào đó, và có khả năng tự nghiên cứu. Học viên là những người quan tâm đến chuyên môn đó chứ không phải những người quan tâm đến chính trị đối lập. Các khoá học của đại học Fulbright ở VN đều được Bộ Giáo dục VN kiểm duyệt.
9. Trên thực tế, hầu hết những người chống chế độ hăng hái nhất ở VN là những người không được đào tạo ở phương tây. Họ không hiểu gì mấy về phương tây cho nên dễ hoang tưởng về sự vô thiên vô pháp và tự do ở các xứ đó. Chỉ một tỷ lệ rất nhỏ những người được đào tạo ở phương tây trở thành bất đồng chính kiến, nhưng nay đã bỏ gần hết. (Những người chưa từ bỏ là do đã từng đi tù. Lao tù là một trải nghiệm khốc liệt biến họ trở nên oán hận chế độ và không quên được). Nếu tôi không nhầm, chỉ có 1 người từng nhận học bổng Fulbright trở thành bất đồng chính kiến (trên tổng số hàng nghìn người). Ngược lại, có người đã hoạt động đối lập hàng chục năm nhưng từ khi tốt nghiệp cao học ở ĐH Fulbright đến nay không còn quan tâm đến chính trị nữa. Những người học ở phương tây trở thành bất mãn chế độ là do thường xuyên đọc các trang lề trái, tiếp xúc với những người bất mãn, thù hận, và giới chính trị hải ngoại, trong khi hiểu biết chính trị còn non yếu, chứ không phải vì họ theo học các khoá học đại học, cao học ở phương tây.
10. Một số người tuyên truyền ông Yunus, người được tổng thống Banladesh chỉ định làm tân lãnh đạo tạm quyền Bangladesh là được Mỹ “nuôi” để làm cách mạng mầu. Lý do là ông từng theo học tiến sĩ kinh tế ở Mỹ bằng học bổng Fulbright, và nhận huân chương của tổng thống Obama. Trên thực tế, ông Yunus là nhà kinh tế rất nổi tiếng thế giới, được giải Nobel Hoà bình vì sáng kiến xây dựng chuỗi ngân hàng để tài trợ tín dụng vi mô cho người nghèo. Sáng kiến của ông đã giúp cho hàng chục triệu người nghèo ở Bangladesh và nhiều nơi trên thế giới, bao gồm VN, thoát nghèo. Hầu như cả cuộc đời, ông chỉ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế: là giáo sư đại học và phát triển chuỗi ngân hàng tín dụng vi mô. Bây giờ đã 84 tuổi mới được tổng thống chỉ định là lãnh đạo tạm quyền là do ông rất được lòng dân nghèo nhờ công sức xoá đói giảm nghèo. Nói rằng Mỹ “nuôi” một ông già 84 tuổi để làm đảo chính thì hơi quá đáng, dù có thể ông là người thân Mỹ.
11. Quý vị chỉ nên cảnh giác với những khoá học mà nhiều tờ báo
chính thức của công an cảnh báo. Tôi nghĩ ngành công an đã nghiên cứu kỹ lưỡng
và tuân theo chủ trương của chính phủ để thông báo những gì có nguy cơ cho an
ninh quốc gia.
III. CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH NHƯ THẾ NÀO
12. Hiện nay, đảng cộng sản VN chủ trương không để cho bất kỳ mầm mống đảng phái/tổ chức/nhóm chính trị đối lập, tổ chức xã hội dân sự độc lập nào tồn tại. Từ 2017 đến nay, đảng có chủ trương cấm đảng viên đòi hỏi “đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, xã hội dân sự”, nghĩa là chặt đứt mọi nỗ lực nhằm thành lập nhóm diễn biến hoà bình trong đảng, đặc biệt là trong giới lãnh đạo cao cấp. Thế nên nguy cơ cách mạng mầu ở VN hiện nay gần như không có.
Những cuộc đảo chính hoặc bạo loạn nghiêm trọng thường xảy ra khi có mâu thuẫn xã hội rất lớn, hoặc thảm hoạ, thất bại lớn. Đảo chính xảy ra ở Bangladesh trước tiên là vì quốc gia đó cho phép đảng phái/hội nhóm đối lập tự do hoạt động. Cộng thêm chính sách ưu tiên gây mâu thuẫn lớn trong xã hội và chính quyền không xử lý khéo léo (những người biểu tình yêu cầu chính quyền xin lỗi nhưng họ không chịu xin lỗi khi gần 20 sinh viên thiệt mạng do bị cảnh sát bắt chết khi biểu tình). Chính vì vậy, các đảng phái, hội nhóm đối lập tranh thủ kích động đảo chính. VN hiện nay đủ sức chống đỡ những nguy cơ thiên tai, địch hoạ để giữ vững chế độ. Chính quyền cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm để tháo van mâu thuẫn, bức xúc xã hội.
13. Tuy nhiên, điều quan trọng là thuyết phục được người dân tin tưởng ở các chủ trương, đường lối của đảng. Tỷ lệ người sùng bái Mỹ và phương tây ở VN hiện nay rất lớn. Thế nên rất cần những người được đào tạo ở phương tây tham gia xây dựng hệ thống lý luận chính trị, giáo dục, tuyên truyền. Những người ít kinh nghiệm, đặc biệt là không được đào tạo bài bản về các lĩnh vực liên quan đến chính trị ở phương tây, khó có thể đảm nhiệm công việc đó. Trong thời gian tới, chính phủ cần bổ sung đội ngũ cộng tác viên am hiểu về phương tây để hỗ trợ giáo dục, tuyên truyền chính trị. Đặc biệt, 95% dân số là ngoài đảng. Chính vì vậy rất cần bổ sung một đội ngũ cộng tác viên ngoài đảng, bởi vì họ hiểu rõ cách tư duy của những người ngoài đảng. Cần sự hợp tác giữa các chuyên gia am hiểu về phương đông và phương tây, trong và ngoài đảng, trong công tác giáo dục và tuyên truyền chính trị.
14. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến Liên Xô sụp đổ là đã không học hỏi kinh nghiệm kinh tế thị trường của phương tây từ sớm, dẫn đến kinh tế sụp đổ trong thập kỷ 1980s. Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã có tư tưởng mở cửa với phương tây, sẵn sàn áp dụng kinh tế thị trường từ đầu thập kỷ 1960s. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông do bảo thủ, giáo điều đã cản trở những điều này dẫn đến thảm hoạ cả kinh tế lẫn chính trị. Mãi đến 1978, sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình mới có cơ hội tiến hành những ý tưởng của ông ta, đưa Trung Quốc vào thời kỳ phát triển rực rỡ. VN đã học hỏi rất nhiều kinh nghiệm của phương tây trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, lĩnh vực lý luận chính trị, văn hoá, văn minh vẫn còn khá yếu, và có nguy cơ tụt hậu. Đó cũng là lý do khiến cho một bộ phận khá đông trí thức thiếu tin tưởng vào chủ trương, đường lối của đảng.
15. Việt Nam cần học hỏi phương tây về khoa học và văn minh. Rất cần khuyến khích học bổng Fulbright, các khoá học của đại học Fulbright, cũng như các khoá học chính quy khác ở các nước phát triển. Chỉ cần giáo dục người dân phân biệt giới khoa học với giới chính trị gia, giới hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền. (Các nhà khoa học tham gia hoạt động chính trị/nhân quyền thì cũng cần coi là nhà hoạt động chính trị/nhân quyền). Cần khuyến khích người dân theo học những khoá học chuyên môn nghiêm túc, tránh những khoá đào tạo ngắn hạn do giới hoạt động chính trị, hoạt động nhân quyền tổ chức.
16. Cuối cùng, vẫn cần phải cân đối hài hoà giữa tự do và an
ninh quốc gia. Cần nghiên cứu để tiếp tục mở rộng các quyền dân chủ và tự do
cho người dân. Bởi lẽ cương lĩnh của đảng đề ra mục tiêu phát triển của nước ta
cũng bao gồm dân chủ: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh".
CHÚNG TA ĐÃ ĐÁNH ĐUỔI MỘT NỀN VĂN MINH HAY ĐÁNH ĐUỔI GIẶC DỐT, GIẶC LẬT SỬ
Từ nhiều thập kỷ nay, giới bất mãn chế độ vẫn hăng say tuyên truyền: “Chúng ta đã đánh đuổi một nền văn minh” để nói về việc nhân dân VN đánh đuổi Pháp. Nguồn gốc sâu xa của luận điệu này có lẽ là từ đội cờ vàng. Đội này cay cú vì thua cuộc cho nên tìm mọi cách phủ nhận mọi chiến thắng của dân tộc do đảng cộng sản lãnh đạo.
Một số người hăng hái cổ vũ cho điều này là nhà văn Nguyên Ngọc, nhà báo Huy Đức.
Năm 2016, Quỹ Văn Hoá Phan Chu Trinh đã có hành vi kỳ quặc là trao Giải thưởng
Nghiên cứu Lịch sử và Văn hoá cho một giáo sư ngành Y, ông Nguyễn Ngọc Lanh.
Tìm hiểu kỹ thì thấy ông Lanh là một nhà nghiên cứu nghiệp dư nhưng đã có nhiều
quan điểm “lật sử”: rửa mặt, giảm tội cho nhiều “Việt gian bán nước”, chê bai
đường lối dùng bạo động để chống Pháp, gọi chiến tranh Nam-Bắc (1955-1975) là nội
chiến. Trong diễn từ đoạt giải Phan Chu Trinh, GS Lanh ca tụng cụ Phan Chu
Trinh là “Người đầu tiên phân biệt được ‘quân xâm lược’ với ‘bọn thực dân’. Cụ
không coi thực dân là "giặc" mà là đám người muốn lập nghiệp lâu dài ở
thuộc địa. Họ đại diện một nền văn minh cao hơn, lẽ ra ta cần nhiều thế kỷ mới
được như họ. Tất nhiên, thực dân cũng có nhiều mặt xấu. Nhưng nếu chịu học, ta
sẽ đỡ tốn thời gian dài bằng nhiều kiếp người. Chủ trương "Chi Bằng Học"
của cụ Phan thể hiện một viễn kiến thật kỳ lạ, vượt trước đương thời.” Với những
quan điểm như vậy, không có gì ngạc nhiên ông Lanh được Nguyên Ngọc, chủ tịch hội
đồng, cùng nhiều nhân vật bất mãn khác trong hội đồng trao giải.
Chủ trương đánh Pháp không phải của riêng đảng cộng sản. Trước đó, đã có 3 ông
vua, nhiều quan đại thần, cùng với hàng vạn sỹ phu khắp các miền nổi lên chống
Pháp cho dù bị đàn áp, giết hại vô cùng dã man. Ngay cả thời Việt Nam Cộng Hoà,
mặc dù triết lý luẩn quẩn nhưng cũng đặt tên đường để tri ân nhiều sĩ phu, đại
thần chống Pháp như Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Đạm, Đề Thám, Nguyễn
Trung Trực, Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu, Tạ Thu Thâu, Cô
Giang, Cô Bắc...
Trong bối cảnh toàn dân mù chữ thời đầu thế kỷ 20, các cụ Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Hồ Chí Minh…là nhóm trí thức hiếm hoi được học hành, hiểu biết nhiều
nhất thời bấy giờ. Tuy nhiên, tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh thuộc dạng dở nhất,
ngô nghê nhất. Cụ chủ trương “Ỷ Pháp tự cường”, nghĩa là không quyết liệt chống
pháp mà dựa vào Pháp để “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Cụ Hồ đã
phê bình tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh, bởi không thể kỳ vọng thực dân Pháp tạo
điều kiện cho người Việt “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Trên thực
tế, phong trào Duy Tân của cụ đã nhanh chóng bị thực dân Pháp xoá sổ. Chủ
trương bất bạo động của cụ Phan cũng xa lạ với chủ trương của Gandhi. Bởi
Gandhi cũng chủ trương đánh đuổi thực dân Anh để giành độc lập ngay lập tức. Chủ
trương của Gandhi gần giống với Hồ Chí Minh hơn, bởi họ không kỳ vọng ở thiện
chí hợp tác của bọn thực dân. Bất bạo động hay bạo động chỉ là phương tiện. Đấy
là chưa kể chê chủ trương dùng bạo lực để dành chính quyền thì chê cả Nelson
Madela. Cụ Phan Chu Trinh cũng chẳng phải người đầu tiên nhận ra dân trí kém,
quan lại hủ bại, v.v…bởi có nhiều trí thức trước đó đã nêu lên những điều này.
Một thực tế vô cùng quan trọng là trước khi thực dân Pháp xoá sổ giáo dục Nho học,
nước ta vẫn có khoảng 15,000 trường dạy chữ nho, với khoảng 200,000 học sinh
theo học. Toàn quyền Pháp quyết tâm thay chữ nho thay bằng chữ quốc ngữ bởi muốn
thực thi chính sách ngu dân và ngăn cản tinh thần yêu nước ở VN. Hệ thống giáo
dục Nho học khuyến khích tinh thần chống ngoại xâm khiến họ lo ngại. Họ chỉ muốn
đào tạo một nhóm nhỏ trí thức để phục vụ chính quyền thuộc địa. Trong các trường
do Pháp bảo trợ như trường Bưởi, Albert Sarraut, các trường quốc học, học sinh
phải học “Tổ tiên chúng ta là người Gaulois”. Các anh hùng dân tộc là Napoleon
và Jeanne d’Arc thay vì Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt.
Kết quả của chính sách ngu dân của Pháp là sau khi giành độc lập năm 1945, 95%
dân Việt Nam mù chữ. Đó là lý do chính phủ của cụ Hồ phải mở chiến dịch Bình
dân Học vụ để diệt “giặc dốt”. Trong 9 năm kháng chiến, 8 triệu người đã được
thoát nạn mù chữ. Đến 1959, miền Bắc đã giải quyết xong nạn mù chữ cho người
dân từ 12-50 tuổi. Năm 1965, xoá nạn mù chữ cho các tộc thiểu số ở miền Bắc.
Sau khi giải phóng, 1975-1978, về cơ bản hoàn thành xoá nạn mù chữ ở Miền Nam
[1]. Không hiểu, nếu theo đường lối của của Phan Chu Trinh thì mấy trăm năm nữa
chúng ta mới xoá được nạn mù chữ. Mù chữ thì không thể nâng cao dân trí. Bị lật
sử theo kiểu: “Tổ tiên là người Gaulois” thì không thể chấn dân khí. Chỉ khi
người Việt nắm quyền lãnh đạo quốc gia thì mới có thể thực sự quan tâm đến “dân
sinh” của người Việt.
Thực dân Pháp có nhiều tội ác ở VN như sưu cao thuế nặng, tước đoạt quyền lợi của
người Việt. Người Việt chỉ được coi là công dân hạng hai trên chính đất đai của
cha ông, tổ tiên. Một trong những tội ác nghiêm trọng nhất của chúng là chính
sách ngu dân, nuôi dưỡng “giặc dốt” trên toàn quốc, và xoá sổ lịch sử của dân tộc.
Không cho phép trí thức ta được học tập đúng đắn cội nguồn “con rồng, cháu
tiên”, được tự hào về truyền thống đánh giặc ngoại xâm. Việc đánh đuổi giặc
Pháp là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quan niệm chống ngoại xâm của toàn
nhân loại.
Cụ Phan Chu Trinh sống trong thời kỳ các kiến thức về quản trị quốc gia chưa phổ
biến cho nên tầm nhìn hạn chế, không có gì lạ. Ngày nay, chỉ cần có đôi chút kiến
thức này là hiểu muốn “khai dân chí, chấn dân khí, hậu dân sinh” thì phải giành
được độc lập. Sau đó, gửi thanh niên ra nước ngoài học tập hoặc mời chuyên gia
đến VN giảng dạy. Nhưng họ giảng dạy điều gì ở VN cũng phải được người Việt cho
phép. Thế mà đến giờ vẫn còn một đám “trí thức” không hiểu điều này. Họ còn đem
một số công trình xây dựng thời Pháp ra để bào chữa, thậm chí, đòi người Việt
phải biết ơn nước Pháp đã “khai hoá văn minh”. Đúng là sự vô tri đã lên đến cực
điểm.
Chúng ta không “đánh đuổi Một nền văn minh” mà đánh đuổi “Giặc dốt”, “Giặc lật
sử”!!!
[1]https://vietnamnet.vn/ngay-quoc-te-xoa-nan-mu-chu-8-9-thanh-qua-tai-viet-nam-duoc-duy-tri-ben-vung-2188064.html
Chỉ 8% học sinh cuối cấp trung học ở Mỹ biết rằng chế độ nô lệ là nguyên nhân chính dẫn đến nội chiến
Tôi vừa đọc được một bài phê phán tự do học thuật ở VN. Trong đó ông giáo sư Doyle Srader của Mỹ và bà tiến sĩ VTPA cho rằng Luật Giáo dục Đại học năm 2018 của VN quy định giảng viên được phép “độc lập về quan điểm chuyên môn trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên nguyên tắc phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội” là sai trái. Họ cho rằng giảng viên cần được tự do thích dạy gì thì dạy. Bà VTPA nói rằng con gái bà được tự do, tranh luận, phản biệt về lịch sử Mỹ. Trong khi đó “môn học này ở Việt Nam lại bị giới hạn góc nhìn theo quan điểm chính thống”.
Tôi chưa có điều kiện tìm kiếm tài liệu về giảng dạy lịch sử Mỹ ở bậc đại học.
Tuy nhiên, giống như mọi quốc gia trên thế giới, đa số người dân Mỹ học lịch sử
ở bậc phổ thông. Chỉ một số ít người sẽ vào đại học/cao đẳng. Hơn nữa, thông
thường chỉ có sinh viên một số ngành (không phải tất cả các ngành) Khoa học Xã
hội và Nhân văn phải học môn lịch sử. Sinh viên các ngành Khoa học tự nhiên, kỹ
thuật thường không phải học. (Trừ ở các trường Liberal Art, một số sinh viên tự
nhiên, kỹ thuật có thể lựa chọn môn này, nhưng không bắt buộc).
Bà VTPA có biết ở Mỹ, họ dạy lịch sử cho học sinh thế nào không? Theo một
nghiên cứu của Teaching Tolerance đăng trên trang của Hiệp hội Giáo dục Quốc
Gia (NEA), "CHỈ 8% HỌC SINH CUỐI CẤP TRUNG HỌC Ở MỸ BIẾT RẰNG CHẾ ĐỘ NÔ LỆ
LÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA NỘI CHIẾN". Gần 50% học sinh cho rằng “phản đối
thuế với hàng nhập khẩu” là nguyên nhân chính gây ra Nội chiến. 2/3 số học sinh
không biết rằng cần phải sửa đổi hiến pháp để chấm dứt chế độ nô lệ [1].
Điều chắc chắn, không phải học sinh Mỹ quá dốt cho nên không thuộc lịch sử, mà
đó là do định hướng giảng dạy của chính quyền. Teaching Tolerance cũng điều tra
1.700 giáo viên về thái độ của họ đối với việc dạy học về Chế độ Nô lệ. 97% giáo
viên đồng ý rằng việc học về chế độ nô lệ là điều cần thiết để hiểu lịch sử Mỹ.
Tuy nhiên, 40% giáo viên nói rằng bang của họ không hỗ trợ đầy đủ cho việc giảng
dạy về Chế độ Nô lệ và 58% nói rằng sách giáo khoa của họ không trình bày đầy đủ
về vấn đề này. Và một tỷ lệ lớn giáo viên cũng ngại dạy về phân biệt chủng tộc
[1].
Cũng giống như VN, đa số học sinh Mỹ học ở trường công lập (91%)[2]. Nhưng trường
công lập được bang tài trợ. Thế nên giáo viên phải dạy cho học sinh chương
trình do bang quy định (nếu không thì họ cắt tài trợ. Nhưng tình hình là giáo
viên phát biểu như vậy.
Mỹ cũng không dạy lịch sử độc lập với quan điểm chính trị chính thống đâu, thưa
bà.
[1]https://www.nea.org/nea-today/all-news-articles/us-students-disturbing-lack-knowledge-about-slavery
[2]https://www.usnews.com/education/k12/articles/private-school-vs-public-school
Phát triển công nghiệp bán dẫn như thế nào
Đấy là vấn đề chuyên môn sâu, phải nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu dự báo, lập dự án tiền khả thi. Không phải là chuyện để ngồi chém gió linh tinh. GDP Hàn Quốc 1700 tỷ USD, gấp 4 lần VN. GDP/capita thì gấp 8 lần VN, nghĩa là họ có khả năng trả lương trung bình cho kỹ sư cao gấp 8 lần VN. Họ đầu tư 7 tỷ USD cho công nghệ bán dẫn. Nên nhớ Hàn Quốc là nước nhập khẩu chất xám. Họ còn đào tạo khá nhiều kỹ sư, giáo sư, tiến sỹ công nghệ cho VN. Họ thu hút được khá nhiều người Việt và các quốc gia khác ở lại làm việc. Họ đã có bề dày kinh nghiệm phát triển công nghệ cao, có đội ngũ kỹ sư bán dẫn đông đáng kể. Các tập đoàn Hàn Quốc như Samsung, Hyungdai, SK, LG làm cho cả thế giới khiếp vía.
VN cũng muốn đầu tư 7 tỷ USD như Hàn Quốc, trong khi bắt đầu từ con số 0??? Hiện giờ VN là nước xuất khẩu chất xám. Chính phủ định đào tạo 50,000 kỹ sư bán dẫn. Công nghệ bán dẫn là công nghệ cao. Thế nên trên thực tế sẽ chỉ có khoảng 40-50% có khả năng đảm nhận công việc xứng với tấm bằng đó thôi. Đấy là chưa kể hiện giờ các nước phát triển đều khan hiếm tài năng bán dẫn. Họ sẽ tìm đủ mọi cách để thu hút chuyên gia khá, giỏi người Việt sang nước họ làm việc. Thế nên trên thực tế, cuối cùng sẽ chỉ còn khoảng 10-12,000 kỹ sư thực sự tham gia vào lĩnh vực bán dẫn ở VN thôi.
Muốn làm gì thành công cũng phải có TIỀN và NHÂN TÀI. Hiện giờ
đầu tư nước ngoài vào ngành bán dẫn vẫn còn khiêm tốn. Hi vọng thời gian tới
khá hơn. Lâu nay, tôi chỉ nghe nói chuyện đào tạo kỹ sư bán dẫn. Nhưng theo
tôi, làm thế nào để giữ chân được chuyên gia khá giỏi người Việt và người nước
ngoài đến VN làm việc mới là vấn đề đau đầu nhất. Mỗi trung tâm R&D chỉ cần
mất đi 3-4 người giỏi nhất thì coi như tan rã.
Giả dụ một công ty Mỹ đầu tư vào sản xuất bán dẫn ở VN. Họ sẽ điều những kỹ sư khá giỏi sang Mỹ công tác. Đầu tiên là những chuyến công tác ngắn hạn. Rồi đến trung hạn, vài tháng. Rồi họ gợi ý cho con cái sang Mỹ học. Vợ/chồng cũng sẽ được bố trí phụ cấp hoặc tạo điều kiện cho sang học. Người kỹ sư đó sẽ muốn sang theo vừa chăm con, vừa có cơ hội làm việc ở chi nhánh ở Mỹ. Hoặc họ bố trí cho sang Mỹ học cao học. Làm việc ở Mỹ vừa được trả lương cao hơn rất nhiều, môi trường làm việc hiện đại, đồng nghiệp giỏi giang. Gia đình được lợi đủ đường. Thế là xong.
Không nói sang Mỹ xa xôi, mấy nước gần gần đây như Úc, Sing, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc trả lương cho kỹ sư Việt khá giỏi cao gấp 3-8 lần để họ sang đó làm việc, thì liệu họ có chống đỡ nổi sức cám dỗ hay không???
Mấy năm rồi, VN cũng ồn ào việc phát triển AI. Nhưng thực tế rất lem nhem, manh mún, cũng vì nhân tài chạy ra nước ngoài quá nhiều, trong khi chiều chạy về nước làm việc khá ít. Dĩ nhiên, công nghệ bán dẫn có triển vọng sẽ được đầu tư nhiều hơn. Chính phủ cũng quyết tâm hơn. Nhưng dù sao, bán dẫn vẫn là công nghệ cao. Chuỗi giá trị bán dẫn có nhiều phân khúc. Ở thời điểm này, tôi nghĩ, chúng ta chỉ có thể mơ mộng sẽ tham gia ở phân khúc khá hơn gia công thôi. Tôi không thấy có cơ sở nào để mơ mộng phân khúc làm R&D lõi cả. Muốn làm lõi thì phải có nhiều thạc sĩ, tiến sĩ. Trong khi đến giờ chúng ta mới chỉ đang bàn chuyện đào tạo kỹ sư.
Nói vắn tắt, trước tiên phải nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu dự báo, nghiên cứu tiền khả thi một cách bài bản. Cần mời các chuyên gia kinh tế trong nước phối hợp với các chuyên gia công nghệ (cả trong và ngoài nước) lập các đề án. Tôi nhấn mạnh là mời chuyên gia định lượng giỏi về kinh tế ở trong nước. Nhiều đồng nghiệp của tôi đủ năng lực để làm việc này. (Không nhất thiết họ phải có kinh nghiệm về nghiên cứu phát triển công nghiệp bán dẫn trước đó. Chỉ cần họ có kỹ thuật định lượng tốt là được). Chuyên gia kinh tế ở nước ngoài không hiểu gì mấy về môi trường VN, không làm được. Ở mọi nơi trên thế giới, nghiên cứu để phát triển một ngành khoa học công nghệ luôn là công việc của ngành kinh tế. Cũng có thể cần phải làm thứ giống như Made in Vietnam riêng cho ngành bán dẫn. Cái này đội kinh tế Việt làm vài tháng là xong, miễn là có đề án.
Mấy tháng nay, tôi đọc bài các ông chuyên gia công nghệ bán dẫn chém giời, chém biển, rất buồn cười. Tôi nhấn mạnh là mọi cuộc họp hành, lập kế hoạch cho ngành bán dẫn bắt buộc phải mời chuyên gia kinh tế. Và phải mời chuyên gia giỏi kỹ thuật định lượng thực sự và có đôi chút kinh nghiệm cố vấn chính sách là được. Phải thành lập một đội chuyên gia kinh tế phục vụ phát triển công nghiệp bán dẫn. Chuyên gia kinh tế tham gia không phải chỉ để hoạch định tài chính mà là xây dựng bức tranh tổng thể, và vạch ra đường đi nước bước, để phát triển ngành bán dẫn VN.
Chống tham nhũng và bảo vệ các lãnh đạo tài năng
Chống tham nhũng là việc rất khó đối với các nước đang phát triển như VN. Xếp hạng Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng năm 2023 của VN là 83, không cao nhưng cũng không quá thấp, hơn khá nhiều nước phát triển hơn VN. Ngay cả ở Mỹ, các tổng thống như Biden, Trump cũng liên tục bị điều tra các cáo buộc tham nhũng, chủ yếu là những nghi vấn con cái của họ kiếm lời bất chính dựa trên ảnh hưởng của bố. Cho dù các luật sư cãi cho họ trắng án thì cũng chẳng ai tin là hoàn toàn không có những chuyện đó.
VN vẫn phải tiếp tục chống tham nhũng, nhưng cũng cần giữ những lãnh đạo tài năng. Tài năng lãnh đạo ở đây có thể theo nghĩa quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, có nhiều sáng kiến, thành tích tốt trong quản lý, thu hút đầu tư, thu hút nhân tài v.v…Tham nhũng và Người tài là hai vấn đề khác nhau. Một lãnh đạo có thể tham nhũng tương đối nặng nhưng lại là người rất có tài. Tôi nghĩ rằng phải song song kết hợp: vừa chống tham nhũng vừa bảo vệ tài năng.
Ví dụ, đối với những lãnh đạo có tài nhưng có biểu hiện tham nhũng, TW nên kéo dài thời gian điều tra họ cho đến hết nhiệm kỳ. Đồng thời, có thể áp dụng các biện pháp đặc biệt như đóng băng một số tài sản của họ, hạn chế, thậm chí cấm đi nước ngoài, hoặc nếu họ vẫn cần ra nước ngoài công tác thời gian ngắn thì cần có lực lượng an ninh giám sát chặt chẽ, để tránh hiện tượng bỏ trốn. Trong suốt thời gian công tác, thỉnh thoảng họ sẽ phải giải trình trước Ban kiểm tra TW, Quốc hội và/hoặc Cục điều tra của Bộ công an. Đối với những lãnh đạo có tài năng đặc biệt theo nghĩa khó kiếm người thay thế, thậm chí vẫn tiếp tục để họ làm lãnh đạo cho đến khi nghỉ hưu. Sau khi họ hết nhiệm kỳ hoặc nghỉ hưu, mới chính thức khởi tố/hoặc có những quyết định cuối cùng. Quyết định cuối cùng đó cũng sẽ tính đến những công lao, thành tích của họ đạt được kể từ khi bắt đầu bị nghi vấn. Họ có thể “lập công chuộc tội” đến mức được xử trắng án, trong khi nhà nước vẫn thu hồi được tài sản tham nhũng.
Trong thời gian họ tiếp tục công tác, TW có thể công bố một số
mức cảnh báo công khai, ví dụ: (i) Người này đang bị nhiều tố cáo và các cơ
quan chức năng đang điều tra; (ii) Người này đã có một số nghi vấn có những vi
phạm nghiêm trọng về quản lý; (iii) Người này đã bị xếp vào diện theo dõi đặc
biệt. Với những mức cảnh báo công khai như vậy, tôi tin rằng các cá nhân, tổ
chức muốn câu kết với họ để tham nhũng cũng sẽ ngần ngại.
Còn đối với những người không có tài gì lắm, dễ dàng kiếm người
thay thế thì có thể xử lý ngay.
Ngoài ra, vẫn phải tăng thu nhập cho lãnh đạo. Các đơn vị sự nghiệp có thu sẽ cần tự lập kế hoạch mức thu nhập bổ sung cho các cấp lãnh đạo (kể cả lãnh đạo các cơ quan hành chính), lấy từ nguồn lợi nhuận kiếm được. Ngoài ra, quỹ lương của ngân sách cũng phải điều chỉnh tăng thêm cho các cấp lãnh đạo từ vụ phó trở lên gấp 3-4 lần hiện nay.
Nhiều người thắc mắc tại sao VN không thể tăng lương thật cao
cho công chức như Singapore. Trên thực tế, trên thế giới chỉ có mỗi Singapore
làm được như vậy có thể do quy mô dân số rất bé (chỉ 6 triệu dân), nghĩa là
bằng 1/2 dân số Hà Nội. Singapore là nước công nghiệp phát triển, 100% đô thị
hoá. Chỉ cần 1, 2 ngành công nghiệp là đủ nuôi cả nước. Với quy mô dân số quá
bé, thủ tướng có thể đi sâu đi sát công việc đến từng phường. Và họ cũng chỉ
thực hiện chính sách lương đó khi thu nhập trung bình (GDP/capita) đã tương đối
cao.
Một số người khác thắc mắc, ngay cả trả lương 200-300
triệu/tháng cho các quan chức thì cũng không so sánh được với thu nhập kiếm
được từ tham nhũng. Đúng vậy, nhưng Singapore cũng không thể trả lương cực cao
cho mọi quan chức. Mức lương cao nhất của thủ tướng Lý Hiển Long là 1.6 triệu
$/năm, vẫn chẳng so sánh với thu nhập nếu ông ấy tham nhũng. Nhưng phải trả
lương tốt thì mới có cơ sở để chống tham nhũng mạnh tay.
Thật ra, vấn đề nghiêm trọng nhất của VN là chảy máu chất xám
trầm trọng sang phương tây. Thế nên giữ được lãnh đạo tài năng lại càng trở
thành trở thành yêu cầu cấp bách.
THAM NHŨNG VÀ TỰ DIỄN BIẾN LÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC NHAU
Nhiều người tham nhũng nặng nhưng vẫn cho rằng đường lối chính trị của đảng là đúng đắn. Trong khi đó, có thể có những người không tham nhũng gì mấy nhưng lại tự diễn biến, tự chuyển hoá. Từ khi có quy định 102 QĐ/TW-2017, nguy cơ mất chế độ không còn là nguy cơ lớn nữa.
Có bạn cãi rằng không có chuyện các UVTW có chế độ giám sát, theo dõi lẫn nhau. Ngay cả như vậy đi nữa thì từ khi có quy định này các chủ đề “Chủ nghĩa xã hội”, “Chủ nghĩa Marx-Lenin”, “Đa nguyên đa đảng”, “Tam quyền phân lập”, “Xã hội Dân sự” đều trở thành các chủ đề cấm kị. Sở dĩ Liên Xô sụp đổ là do các chủ đề đó ở Liên Xô thời 1990 không phải là chủ đề cấm kỵ. Các đảng viên thoải mái tụ tập, bàn bạc, thậm chí hội thảo, đăng báo. Chính vì vậy nhóm người muốn trở cờ dễ dàng tìm được đồng minh để cài cắm nhau vào các vị trí lãnh đạo và tấn công chế độ trên quy mô lớn. Ở VN hiện nay, hầu như không còn cơ hội đó nữa.
Vừa rồi có nhiều tranh cãi gay gắt về những vụ “lật sử”. Thật ra khái niệm “lật sử” của mỗi người, mỗi khác. Bới lông tìm vết quá mức thì sẽ dẫn đến vùi dập người tài, hạn chế tự do của công dân. Cương lĩnh của Đảng hiện vẫn chủ trương “Xây dựng xã hội thịnh vượng, dân chủ, công bằng, và văn minh”. Chữ dân chủ đó không hàm nghĩa dân chủ kiểu phương tây nhưng vẫn cần tiếp tục nới rộng tự do cho người dân. Đương nhiên, nới rộng đến đâu là vừa thì còn nhiều tranh cãi bởi cần đảm bảo quyền tự do của người dân, ổn định xã hội, và giảm thiểu bất mãn, chống đối. Trên thực tế, từ 2005 đến nay, người dân được tự do phát biểu nhiều vấn đề nhạy cảm hơn trước đó thì mức độ chống đối giảm hẳn. Chất lượng trung bình của cộng đồng “đấu tranh dân chủ” sụt giảm thê thảm so với các thế hệ trước.
Nói tóm lại, tôi cho rằng VN hiện nay cần tập trung bảo vệ các
lãnh đạo có tài. Chống tham nhũng là ưu tiên số 2. Tự diễn biến, tự chuyển hoá
đương nhiên cũng quan trọng nhưng cần phải có những cách tiếp cận khác. Tôi sẽ
nói thêm về những vấn đề này trong các bài khác.